Đặt vấn đề
Trong môi trường giáo dục đại học, ngoài nhiệm vụ chính là giảng dạy, giảng viên (GV) còn bắt buộc phải tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học, luôn cập nhật và vận dụng những kiến thức mới vào hoạt động thực tiễn, hướng dẫn, định hướng người học cùng tham gia các hoạt động và đóng vai trò quan trọng trong quá trình nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đó, GV phải thực hiện nhiều hoạt động, trong đó hoạt động khai thác thông tin phục vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học được xem là một trong những hoạt động quan trọng. Trong hoạt động đó, có rất nhiều yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhu cầu tin, quá trình tìm kiếm thông tin cũng như sử dụng và chia sẻ thông tin của GV - được hiểu như yếu tố cấu thành hành vi thông tin (HVTT) của GV.
Từ kết quả nghiên cứu HVTT của GV tại một số trường đại học ở nước ta cho thấy, HVTT của GV chưa thực sự hoàn thiện bởi còn một số hạn chế nhất định. Chính vì vậy, việc nhận diện, xác định những yếu tố ảnh hưởng đến HVTT và đề xuất các giải pháp tác động đến HVTT của GV là những nhiệm vụ mà các trường đại học cần phải quan tâm nhiều hơn, đặc biệt là các thư viện đại học. Do đó, trên quan điểm của nhóm nghiên cứu, bài viết bước đầu hệ thống hoá cơ sở lý luận liên quan, đồng thời, mở ra một hướng nghiên cứu trong tương lai gần gắn liền với thực tiễn nghiên cứu HVTT của GV. Nghiên cứu đó sẽ được thực hiện dựa trên kết quả khảo sát về các mức độ ảnh hưởng này một cách cụ thể và rõ ràng hơn.
1. Hành vi thông tin của giảng viên và những yếu tố tác động
HVTT là một lĩnh vực liên ngành được tiếp cận từ nhiều quan điểm khác nhau như: tâm lý học nhận thức, hành vi tổ chức, truyền thông, triết học, nhân chủng học, sinh học và triết học, trong đó có khoa học thông tin. Khái niệm “Hành vi thông tin” chính thức xuất hiện từ những năm cuối thập niên 1990, bắt nguồn từ khái niệm “nhu cầu tin và sử dụng thông tin” đã có từ những năm 1960 [3]. Bắt đầu từ những năm 1940, các công trình nghiên cứu HVTT tập trung chủ yếu vào nhu cầu tin và tìm kiếm thông tin [2]. Trải qua quá trình được nghiên cứu và bàn luận, khái niệm “Hành vi thông tin” trở thành một vấn đề nhận được rất nhiều sự quan tâm trong nhiều lĩnh vực và đa dạng người dùng tin khác nhau.
Trong bối cảnh giáo dục đại học, để thực hiện các nhiệm vụ được giao, GV luôn chủ động tìm kiếm thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Trong phạm vi giới hạn của bài viết này, tác giả tập trung vào đối tượng người dùng tin là GV. HVTT của GV là toàn bộ các hoạt động/ hành vi được GV chủ động thực hiện nhằm thoả mãn nhu cầu tin của bản thân. HVTT bao gồm các hoạt động/ hành vi chính: (1) hành vi xác định nhu cầu tin, (2) hành vi tìm kiếm thông tin, (3) hành vi sử dụng và (4) hành vi chia sẻ thông tin.
Phân tích khái niệm này cho thấy, HVTT của GV gồm những khái niệm có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Những khái niệm này được xem là các giai đoạn hay thành phần cấu thành HVTT của GV.
Trước hết, trong hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng, GV luôn nảy sinh nhu cầu có được thông tin để thực hiện các hoạt động này. Đó là nhu cầu về những thông tin thường xuyên, cần thiết phục vụ cho nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu của họ trong và ngoài trường. Với cách hiểu này, khi nhu cầu tin xuất hiện, HVTT của GV chính là nhu cầu tin được thể hiện thành những yêu cầu tin cụ thể, thúc đẩy GV tìm kiếm thông tin để thoả mãn nhu cầu.
Kế tiếp, hành vi tìm kiếm thông tin bao gồm nhiều hoạt động giúp GV tìm kiếm, định hướng nguồn thông tin để thu thập. Trong đó, bước đầu tiên của hành vi tìm kiếm thông tin chính là lựa chọn nguồn thông tin của GV. Xác định được nguồn thông tin phù hợp giúp GV tiết kiệm được thời gian và công sức, đồng thời, GV có thể tìm được thông tin thoả mãn nhu cầu tin của mình. Sau khi xác định được nguồn thông tin phù hợp, GV cần phải xem xét một số vấn đề liên quan như tìm tin như thế nào, tại sao và khi nào tìm kiếm thông tin. Đó là tất cả hoạt động của GV bao gồm xác định nguồn thông tin, tra cứu thông tin, đánh giá và chọn lọc kết quả tìm tin nhằm thoả mãn yêu cầu tin phục vụ hoạt động giảng dạy, nghiên cứu và tự học của GV.
Suy cho cùng, mọi hoạt động của GV khi thực hiện đều nhằm hướng đến việc khai thác giá trị của thông tin đã tìm được để phục vụ cho mục đích của mình. Một trong những giai đoạn quan trọng của HVTT là việc sử dụng thông tin mà GV tìm được. Hành vi sử dụng thông tin của GV được hiểu là tập hợp các hoạt động liên quan đến việc chọn lọc và sử dụng thông tin được tìm thấy nhằm thực hiện các nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và tự học.
Tóm lại, HVTT của GV là toàn bộ các hoạt động được GV chủ động thực hiện nhằm thoả mãn nhu cầu tin của bản thân. HVTT của GV chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau bao gồm: giới tính, độ tuổi, quỹ thời gian của GV, trình độ và kinh nghiệm chuyên môn, trình độ tin học, ngoại ngữ, vai trò của GV, yếu tố liên cá nhân, đặc điểm tâm lý cá nhân của mỗi GV, môi trường giảng dạy và nghiên cứu khoa học, văn hoá nhà trường, khả năng đáp ứng của các nguồn thông tin. Ngoài ra, còn một số yếu tố khác ảnh hưởng đến HVTT của GV trong môi trường đại học. Đây được xem là những yếu tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến HVTT của GV. Nhận diện được những ảnh hưởng của các nhóm yếu tố này đối với HVTT của GV giúp nhà trường, thư viện đại học có cơ sở để xây dựng các giải pháp nhằm hỗ trợ GV hoàn thiện HVTT của GV, đồng thời nâng cao hiệu quả phục vụ thông tin của các thư viện đại học.
Nhóm yếu tố văn hoá
Mỗi trường đại học là một tổ chức và có văn hoá tổ chức hay văn hoá nhà trường, mang những đặc trưng nhất định, tác động và hướng dẫn hành vi, ứng xử của mọi thành viên, trong đó bao gồm GV. Văn hoá nhà trường được thể hiện qua mục tiêu, chiến lược phát triển của nhà trường; điều kiện, môi trường làm việc; nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học đối với GV; yêu cầu nâng cao trình độ đối với GV.
• Mục tiêu, chiến lược phát triển của nhà trường: Mỗi trường đại học đều có mục tiêu, sứ mạng, tầm nhìn, chiến lược phát triển riêng, cũng như mỗi trường mang những nét đặc trưng liên quan đến chương trình đào tạo, nguồn nhân lực, cơ sở vật chất và các yếu tố khác liên quan. Đội ngũ GV trong nhà trường sẽ tập trung hoàn thành các nhiệm vụ cá nhân, gắn liền với mục tiêu chung (ngắn hạn hoặc dài hạn) của nhà trường. Chẳng hạn, đối với một số trường đại học có định hướng phát triển thành trường đại học nghiên cứu hay đại học định hướng nghiên cứu, thì lãnh đạo nhà trường sẽ có sự quan tâm nhiều hơn đến việc xây dựng chính sách, chiến lược nhằm khuyến khích, khen thưởng GV, sinh viên có thành tích nghiên cứu khoa học tốt.
• Điều kiện, môi trường làm việc: Hệ thống chính sách, chế độ, điều kiện, môi trường làm việc của nhà trường đối với GV bao gồm chính sách tiền lương, thưởng, kỷ luật lao động, chính sách đào tạo và phát triển nhân sự, cơ sở vật chất... Khi nhà trường có những chính sách phù hợp và đúng đắn sẽ có tác động rất lớn đến thái độ, hành vi của GV. Chẳng hạn, một số trường đại học đã xây dựng được chính sách hỗ trợ tài chính cho GV có công bố khoa học quốc tế, hay chế độ thưởng tiền cho những GV có công trình nghiên cứu khoa học đạt chất lượng hàng năm. Những chính sách này góp phần tác động gián tiếp đến HVTT của GV thông qua việc tạo động lực cho GV nỗ lực nhiều hơn. Rõ ràng, khi GV được làm việc trong môi trường chuyên nghiệp, trả lương xứng đáng, được tạo cơ hội học tập, nâng cao trình độ, thăng tiến và phát huy năng lực giảng dạy và nghiên cứu khoa học của mình, GV sẽ có sự gắn bó nhiều hơn với nhà trường. Đồng thời, bản thân mỗi GV sẽ tự nhận thức được cần phải nỗ lực nhiều hơn cho mục tiêu chung của nhà trường.
• Nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học đối với GV: Ngoài những nhiệm vụ chính được quy định đối với chức danh GV, mỗi trường thường đặt ra yêu cầu cụ thể trong hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của GV. Chẳng hạn, mỗi năm, GV phải đảm bảo giảng dạy đủ số lượng tiết chuẩn, có ít nhất một bài báo được đăng trên tạp chí chuyên ngành có chỉ số ISSN hoặc kỷ yếu hội thảo khoa học có chỉ số ISBN. Những yêu cầu này đòi hỏi GV phải nỗ lực nhiều hơn để thực hiện được yêu cầu tối thiểu để đạt yêu cầu đánh giá, xếp loại GV. Chính yêu cầu từ văn hoá nhà trường đòi hỏi mỗi GV luôn nỗ lực tìm kiếm thông tin phù hợp để thực hiện các nhiệm vụ đó. Do vậy, HVTT của GV cũng được hình thành từ trong bối cảnh văn hoá của nhà trường.
• Yêu cầu nâng cao trình độ đối với GV: Là một yêu cầu bắt buộc, thường xuyên và liên tục của nhà trường đối với GV. Chẳng hạn, khi GV theo học các chương trình nâng cao trình độ, khoá học ngắn hạn, họ thường dành nhiều thời gian để tìm kiếm và sử dụng thông tin hơn. Ngoài ra, GV luôn chủ động cập nhật và phát triển chuyên môn, nâng cao trình độ chuyên môn.
Nhóm yếu tố cá nhân
• Giới tính và độ tuổi: Giới tính được xem là một trong những yếu tố cá nhân ảnh hưởng đến HVTT của GV. Chẳng hạn, GV nam thường có khuynh hướng sử dụng các công cụ hỗ trợ khi tìm kiếm thông tin liên quan đến công nghệ và họ thường sử dụng các dịch vụ sẵn có được cung cấp từ các nguồn thông tin như các dịch vụ của thư viện đại học. Trong khi đó, GV nữ thường dành nhiều thời gian để tìm kiếm từ các nguồn thông tin và tự họ thực hiện các sản phẩm liên quan, ví dụ như danh mục tài liệu tham khảo khi thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học.
Bên cạnh đó, ở mỗi độ tuổi khác nhau, GV cũng có những đặc điểm HVTT khác nhau. Một số GV lớn tuổi thường có bộ sưu tập tài liệu riêng với nhiều tài liệu có nội dung quý hiếm, đặc thù và họ thường tận dụng các mối quan hệ xã hội với đồng nghiệp để tìm kiếm tài liệu từ các nguồn khác, hoặc mượn tài liệu từ bộ sưu tập của GV khác. Ngoài ra, nguồn thông tin trong thư viện đại học cũng là nguồn mà GV lớn tuổi thường sử dụng. Ngược lại, GV có độ tuổi nhỏ hơn thường tìm kiếm thông tin đa dạng các nguồn hơn, chẳng hạn, tìm kiếm từ nguồn Internet, bạn bè, thư viện, nhà sách.
• Năng lực của GV: Năng lực của GV chính là khả năng thể hiện của mỗi GV thông qua việc vận dụng tri thức, kỹ năng, thái độ đáp ứng yêu cầu của giảng dạy, NCKH và phục vụ cộng đồng. Để GV thể hiện các năng lực này trong hoạt động giảng dạy, nghiên cứu và phục vụ cộng đồng, thì việc tìm kiếm và sử dụng thông tin là điều cần thiết.
Trước hết, năng lực giảng dạy của mỗi GV thể hiện qua chất lượng giáo dục và giảng dạy người học, từ chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy, bài giảng, cho đến quá trình định hướng, dẫn dắt người học, giúp người học có khả năng tự trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng, thái độ cần thiết, phù hợp với đòi hỏi của xã hội và cộng đồng. Để hoàn thiện năng lực giảng dạy, GV phải đảm bảo trang bị bốn nhóm kiến thức và kỹ năng cơ bản gồm có kiến thức chuyên ngành, chương trình đào tạo, kỹ năng về dạy và học, môi trường giáo dục, hệ thống giáo dục.
Kế đến, năng lực nghiên cứu khoa học được thể hiện qua chất lượng và số lượng công bố khoa học của GV cũng như hiệu quả của những nghiên cứu đó đối với xã hội. Năng lực này được xác định dựa trên những sản phẩm khoa học có giá trị thông tin gia tăng, phục vụ cho sự phát triển của nhà trường, cộng đồng học thuật và đóng góp cho sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá của đất nước.
Ngoài ra, năng lực phục vụ cộng đồng có thể được xem là một trong ba năng lực cốt lõi của mỗi GV trong bối cảnh hiện nay. Năng lực này thể hiện qua đóng góp của mỗi GV đối với cộng đồng, mang lại ích lợi cho cộng đồng và được cộng đồng tiếp nhận.
• Trình độ tin học, ngoại ngữ: Đối với GV có trình độ ngoại ngữ tốt, họ thường có khuynh hướng tìm kiếm tài liệu ngoại văn ở nhiều nguồn thông tin khác nhau. Đối với một GV có trình độ tin học tốt, có khả năng sử dụng hiệu quả công nghệ sẽ hỗ trợ rất nhiều cho GV trong quá trình tìm kiếm, tổ chức và sử dụng thông tin. GV sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian khi tìm kiếm, thực hiện các thao tác tìm kiếm thông tin trên máy tính, Internet, sử dụng thành thạo các công cụ tra cứu, công cụ hỗ trợ lưu trữ thông tin tìm được. Đồng thời, trình độ tin học tốt cho phép GV có thể dễ dàng sử dụng thông tin nhằm tạo lập, công bố, chia sẻ những sản phẩm khoa học như bài giảng, bài báo khoa học, ý tưởng nghiên cứu thông qua các công cụ hỗ trợ như mạng xã hội, khoá học trực tuyến...
Nhóm yếu tố xã hội
• Vai trò của GV: Sự đa dạng trong vai trò của GV tạo nên sự đa dạng trong hành vi tìm kiếm và sử dụng thông tin, hay nói cách khác, vai trò của GV ảnh hưởng trực tiếp đến HVTT của GV. Từ nhiều quan điểm khác nhau cho thấy, có những vai trò truyền thống mà mỗi GV phải đảm nhận đó là vai trò của nhà giáo, nhà nghiên cứu và là nhà cung ứng dịch vụ [1]. Tương ứng với những vai trò đó là hành vi và thái độ của GV thông qua cách thức mà GV tương tác với người khác cũng như thể hiện với chính bản thân mỗi GV. Việc khai thác, tìm kiếm, sử dụng và chia sẻ thông tin có ý nghĩa rất lớn trong quá trình GV thể hiện vai trò của mình.
• Yếu tố liên cá nhân: Các mối quan hệ liên cá nhân được xem là yếu tố ảnh hưởng đến quá trình định hướng nguồn thông tin của GV. Tương tự, bên cạnh mối quan hệ với đồng nghiệp, người học, còn có mối quan hệ liên cá nhân giữa GV và người làm thư viện. Sự tác động này được thể hiện qua quá trình hướng dẫn GV những kỹ năng, kiến thức cần thiết để khai thác thông tin hiệu quả, cung cấp sản phẩm, dịch vụ thư viện - thông tin chủ động và kịp thời... Ngược lại, GV giúp thư viện hiểu rõ hơn về các chuyên ngành đào tạo trong trường, xây dựng chính sách bổ sung tài liệu chuyên ngành và các hoạt động khác.
• Quỹ thời gian của GV: Với đặc thù thời gian của GV mang tính linh hoạt, nên GV có thể chủ động sắp xếp và bố trí thời gian làm việc, thời gian tìm kiếm thông tin. Chính vì vậy, GV thường có khuynh hướng tận dụng thời gian thuận tiện nhất để tìm kiếm thông tin. Khi có nhiều thời gian rảnh rỗi, GV thường tìm kiếm ở nhiều nguồn thông tin khác nhau, lựa chọn các hệ thống tìm tin phức tạp hơn để đạt được kết quả phù hợp với nhu cầu tin hơn. Trong khi đó, nếu thời gian bị hạn chế, GV sẽ lựa chọn các hệ thống tìm tin đơn giản và tiết kiệm thời gian tối đa. Ví dụ, trong trường hợp GV đang trong giai đoạn hoàn thiện đề tài nghiên cứu khoa học và họ không có nhiều thời gian để đọc toàn bộ tài liệu mà họ thu thập được. Khi đó, GV sẽ lựa chọn những tài liệu nào liên quan chặt chẽ nhất đến nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Nhóm yếu tố tâm lý
• Thái độ, nhận thức của GV trong hoạt động giảng dạy, nghiên cứu và tự học: Trong hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học, mỗi GV có những đặc điểm tâm lý khác nhau được thể hiện qua tình yêu, sự say mê và hứng thú đối với nghề nghiệp; tinh thần trách nhiệm của GV trong hoạt động giảng dạy, ý thức về nghĩa vụ của cá nhân, lương tâm đạo đức nghề nghiệp. Những đặc điểm tâm lý này mang yếu tố cá nhân của mỗi GV, đồng thời cũng ảnh hưởng và chi phối đến HVTT của mỗi GV. GV có xu hướng thích những công việc mà ở đó họ có cơ hội để vận dụng kỹ năng và thể hiện năng lực của mình, họ có quyền tự chủ trong công việc và nhận thức được thông tin phản hồi phù hợp về những nỗ lực của GV đã đạt được.
Đối với hoạt động nghiên cứu khoa học, khi GV nhận thấy sự thoả mãn của chính sách hỗ trợ nghiên cứu đối với hoạt động nghiên cứu, họ sẽ có thêm động lực, dành thời gian để tìm kiếm ý tưởng, thực hiện nhiều nghiên cứu chất lượng hơn, sáng tạo sản phẩm khoa học thực sự có giá trị. Ngược lại, điều kiện làm việc ít áp lực từ nhà trường, GV cũng sẽ giảm dần sự nhiệt tình, tạo nên sự trì trệ, không cố gắng và thậm chí không còn mong muốn gắn kết với nhà trường. Khi đó, tìm kiếm thông tin phục vụ nghiên cứu không còn là nhiệm vụ cần thiết của mỗi GV.
• Nhận thức của GV về nhu cầu tin: Tại một thời điểm, GV có thể có nhiều nhu cầu đồng thời, chẳng hạn họ có nhu cầu sử dụng thông tin trong nghiên cứu, giảng dạy hay thoả mãn các nhu cầu khác. Ngoài những nhu cầu cơ bản ở cấp bậc thấp, mỗi GV đều có nhu cầu hoàn thiện. Sự hoàn thiện này đòi hỏi GV phải có tri thức, có những năng lực nhất định, thúc đẩy GV hành động để thoả mãn nhu cầu hoàn thiện. Hay nói cách khác, mỗi GV nảy sinh nhu cầu tin, chính nhu cầu này sẽ tạo áp lực để GV tìm kiếm và sử dụng thông tin. Việc nhận thức nhu cầu tin của GV có thể giới hạn ở cách thức xác định nhu cầu tin, phạm vi nội dung, hình thức và phương thức thoả mãn nhu cầu tin của GV.
• Đặc điểm tính cách cá nhân của GV: Một trong những yếu tố tâm lý quan trọng định hướng hành vi của mỗi người chính là tính cách. Mỗi người đều có những cảm xúc riêng, suy nghĩ và hành vi riêng biệt, được hình thành bởi sự kết hợp ổn định của các đặc điểm tính cách. Nó được biểu thị thành thái độ, hành vi của con người đối với bản thân, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và đối với xã hội nói chung. Với từng tính cách khác nhau cho thấy sự khác biệt trong HVTT của GV. Trong quá trình thoả mãn nhu cầu tin, có một số người chủ động xây dựng chiến lược tìm tin, trong khi một số khác lại tìm kiếm thông tin một cách ngẫu nhiên và linh hoạt. Sự khác biệt tính cách của GV tạo nên sự đa dạng trong HVTT của GV (bao gồm tính nhạy cảm, tính hướng ngoại, tính thích khám phá, tìm tòi, tính cạnh tranh, tính chu đáo, tận tâm). Trong khi đó, việc thay đổi tính cách của mỗi người là điều không thể thực hiện. Chính vì vậy, việc nhận diện tính cách và tác động của tính cách đối với HVTT của GV là điều cần thiết. Trên cơ sở đó, các thư viện đại học có thể thiết kế hệ thống tìm tin phù hợp cũng như xây dựng hệ thống sản phẩm, dịch vụ thư viện - thông tin chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu tin của GV, đồng thời góp phần hoàn thiện HVTT của GV.
• Động lực của GV về tìm kiếm thông tin: Trong mỗi cá nhân GV, động lực thúc đẩy GV hành động đó chính là mong muốn thực hiện tốt các vai trò của mình. Trong quá trình hình thành nhu cầu tin, động lực của GV sẽ góp phần thúc đẩy GV hình thành nhu cầu tin. Đồng thời, khi nhu cầu tin được hình thành, GV sẽ tìm kiếm thông tin để thoả mãn nhu cầu tin đó. Hay nói cách khác, động lực của GV tác động trực tiếp đến HVTT của GV thông qua quá trình định hướng nhu cầu tin, định hướng nguồn thông tin, định hướng hành vi tìm kiếm và sử dụng thông tin.
Tóm lại, có hai nhóm yếu tố chính được đề cập đến trong nghiên cứu này, bao gồm nhóm yếu tố thuộc về môi trường khách quan bên ngoài GV (văn hoá nhà trường, vai trò của GV, yêu cầu trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ) và nhóm yếu tố thuộc về GV (giới tính, độ tuổi, nhận thức, động cơ cá nhân, trình độ chuyên môn, trình độ tin học, ngoại ngữ).
2. Một số đề xuất về giải pháp hoàn thiện hành vi thông tin của giảng viên
HVTT gắn liền với nhiều bối cảnh khác nhau, trong đó, môi trường giáo dục đại học được xem là một trong những bối cảnh đặc trưng gắn liền với HVTT của người dùng tin là đội ngũ cán bộ giảng dạy, cán bộ nghiên cứu và người học. Từ kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn về HVTT cho thấy, HVTT của GV rất quan trọng và cần được hoàn thiện. Điều này không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình GV thực hiện vai trò của mình mà còn liên quan đến khả năng hỗ trợ của thư viện đại học nhằm thoả mãn nhu cầu thông tin của GV và đối với khả năng nâng cao chất lượng đội ngũ GV của nhà trường.
Xây dựng chính sách hỗ trợ GV trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Khi môi trường làm việc của nhà trường được hoàn thiện, chú trọng đến nâng cao hiệu quả làm việc, giảng dạy và nghiên cứu sẽ giúp GV có cơ hội phát huy được tối đa năng lực của mình. Như vậy, Lãnh đạo nhà trường cần chú trọng đến việc hoàn thiện văn hoá của nhà trường thông qua một số biện pháp cụ thể liên quan đến chính sách, chiến lược phát triển chung của nhà trường, cũng như những biện pháp khuyến khích, hỗ trợ GV hoàn thành tốt nhiệm vụ. Các trường đại học hiện nay đã có sự quan tâm nhiều đến xây dựng chính sách khuyến khích GV học tập, nâng cao trình độ chuyên môn để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu và giảng dạy. Ngoài ra, tuỳ từng điều kiện cụ thể, các trường đại học nên chú trọng đầu tư cơ sở vật chất như: phòng nghiên cứu dành cho GV, trung tâm nghiên cứu, thư viện... và xây dựng cơ chế hỗ trợ GV tham gia nghiên cứu khoa học, bao gồm các nội dung liên quan đến hành chính, pháp lý, chế độ khen thưởng dành cho GV có thành tích nghiên cứu tốt. Hơn nữa, cùng với các giải pháp này, nhà trường cần thực hiện các chính sách khuyến khích nghiên cứu và công bố khoa học. Trong trường hợp cụ thể, nhà trường có thể tạo điều kiện bằng các hình thức chi hỗ trợ GV gửi bài viết trong và ngoài nước. Mặt khác, một số trường có thể quy đổi giờ nghiên cứu khoa học của GV thành số giờ giảng dạy tương ứng.
Thiết kế hệ thống thông tin hỗ trợ HVTT của GV. Dựa trên những đặc điểm về HVTT của GV, các thư viện có thể thiết kế công cụ mới hoặc cải thiện các công cụ, hệ thống tra cứu thông tin hiện có nhằm hỗ trợ hiệu quả hơn cho quá trình tìm kiếm và sử dụng thông tin của GV. Chẳng hạn, GV ít có thời gian đến và trực tiếp sử dụng nguồn lực thông tin tại thư viện, họ có xu hướng truy cập gián tiếp từ xa thông qua hệ thống Internet và có hành vi tra cứu thông tin từ các giao diện tìm kiếm thân thiện, chuyên nghiệp và tin cậy, thư viện có thể thiết kế, điều chỉnh phù hợp và nắm bắt được xu hướng biểu hiện của hành vi của GV.
Xây dựng nguồn tài nguyên thông tin và đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ thư viện - thông tin. Trong một số thư viện đại học hiện nay, hệ thống sản phẩm, dịch vụ thư viện - thông tin đã đáp ứng một phần đối với nhu cầu tin của GV. Tuy nhiên, các thư viện có thể phát triển nhiều loại hình sản phẩm khác nhau như xây dựng dịch vụ dự trữ học phần nhằm hỗ trợ hoạt động giảng dạy, phối hợp với các phòng ban liên quan trong hoạt động hỗ trợ GV bằng cách cung cấp danh mục công trình, đề tài, hướng nghiên cứu của GV. Trên cơ sở đó, thư viện sẽ xây dựng các bộ sưu tập theo chuyên đề phục vụ sát nhất nhu cầu tin của GV. Đồng thời, công tác bổ sung tài liệu cần chú ý đến việc phối hợp bổ sung dựa trên nhu cầu tin của từng GV. Chẳng hạn, GV cung cấp danh mục tài liệu mà họ cần và thư viện có thể bổ sung dựa trên yêu cầu cụ thể đó.
Hoàn thiện và phát triển hoạt động quảng bá thư viện đại học đối với GV. Cùng với hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống sản phẩm, dịch vụ thư viện - thông tin hỗ trợ GV, các thư viện đại học cần chú trọng hoạt động quảng bá đến người sử dụng thư viện là GV. Kết quả khảo sát cho thấy, nhiều GV cho rằng nguồn tài liệu trong thư viện không phù hợp với yêu cầu của mình, ít tài liệu chuyên ngành, tài liệu cũ... Khi đó, việc sử dụng các nguồn thông tin bên ngoài luôn là sự lựa chọn của rất nhiều GV (đồng nghiệp, bạn bè, Internet...). Như vậy, sự hạn chế về mức độ tiếp cận và sử dụng thư viện các trường đại học cũng phần nào lý giải sự hạn chế về hoạt động quảng bá thư viện đến với GV. Do vậy, các thư viện cần chú trọng giới thiệu các nguồn lực mà thư viện sẵn sàng hỗ trợ cho GV, không chỉ bao gồm cung cấp tài liệu, mà còn là sự đa dạng trong các loại sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ.
Hướng dẫn và định hướng HVTT cho GV và nâng cao nhận thức của GV về tầm quan trọng của HVTT. Xu hướng chung của GV là mong muốn được tiếp cận những nguồn thông tin đa dạng, đầy đủ về các vấn đề liên quan đến chuyên môn, nhiệm vụ mà không dành quá nhiều thời gian để tiếp cận. Do vậy, việc định hướng và hướng dẫn GV trong quá trình xác định nhu cầu tin (cần gì, tìm ở nguồn nào, cách tìm kiếm, cách thức tổ chức, sử dụng và chia sẻ...) là điều thực sự cần thiết. Điều này giúp GV có thể khai thác tối đa giá trị của thông tin nhằm hỗ trợ hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng của mình.
Mỗi GV cần chủ động trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết để tìm kiếm, sử dụng và chia sẻ thông tin hiệu quả. GV cần tự nhận thức và đánh giá về đặc điểm HVTT của mình, từ đó, có ý thức tự học, tự tìm hiểu, học hỏi những kiến thức, kỹ năng từ các chương trình đào tạo, huấn luyện kỹ năng xác định nhu cầu tin, kỹ năng trình bày yêu cầu tin, kỹ năng tìm kiếm và sử dụng thông tin trực tuyến. Các thư viện đại học, nhà trường thường có những biện pháp hỗ trợ để GV hiểu rõ hơn về HVTT của mình ở các mức độ, loại hình HVTT cụ thể. GV cần chủ động theo dõi thông tin và tham gia tích cực các hoạt động do nhà trường, thư viện tổ chức. GV có thể tham gia dưới nhiều hình thức khác nhau như: các lớp hướng dẫn sử dụng thư viện, tham khảo tài liệu hướng dẫn sử dụng các sản phẩm, dịch vụ thư viện - thông tin, trao đổi trực tiếp với người làm thư viện, đồng nghiệp... trong quá trình tìm kiếm và sử dụng thông tin.
Nhìn chung, HVTT của GV chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau - ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhận diện được những ảnh hưởng của các nhóm yếu tố này đối với HVTT của GV giúp xây dựng các giải pháp nhằm hỗ trợ GV hoàn thiện HVTT của GV, đồng thời nâng cao hiệu quả phục vụ thông tin của các thư viện đại học. Để có thể hiểu và phân tích sâu sắc hơn sự tác động của những yếu tố này và đề xuất những giải pháp tác động, hoàn thiện HVTT của GV đòi hỏi từ sự nỗ lực rất lớn và đồng bộ từ nhà trường, thư viện các trường đại học và đặc biệt là từ sự quan tâm, nhận thức của mỗi GV. Khi HVTT của mỗi GV hoàn thiện sẽ là cơ sở để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của nhà trường, đồng thời góp phần thực hiện hiệu quả chiến lược phát triển chung của mỗi trường đại học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Thế Dũng. Vài suy nghĩ về vai trò mới của giảng viên đại học. http://www.oisp.hcmut.edu.vn/ component/content/article/88-thay-dung/169-vai-suy-nghi-ve-vai-tro-moi-cua-giang-vien-dai-hoc. html.
2. Case, Donald O. Information behavior // Annual Review of Information Science and Technology. - 2006. - No. 40 (1). - P. 293-327.
3. Case, Donald O. Looking for Information: A Survey of Research on Information Seeking, Needs, and Behavior (2nd Ed.). - Amsterdam: Elsevier, 2007.
4. Phares, J. E. Introduction to personality. - 3rd Ed. - New York: Harper Collins, 1991.
_________________
ThS. Bùi Hà Phương
Khoa Thư viện - Thông tin học, ĐH KHXH&NV, Đại học Quốc gia Tp. HCM
Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam. - 2018. - Số 2. - Tr. 15-21.
< Prev | Next > |
---|
- Quyền tác giả trong hoạt động sao chép và số hoá tài liệu tại thư viện các trường đại học
- Một số mô hình không gian thư viện sáng tạo, tăng cường văn hoá đọc tại các thư viện công cộng Việt Nam
- Thư viện Văn hoá Thiếu nhi Thư viện đa phương tiện theo mô hình phức hợp mới đầu tiên dành cho thiếu nhi Việt Nam
- Xây dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ thông tin - thư viện tại thư viện các trường đại học ở Việt Nam
- Tìm hiểu cổng thông tin liên kết tài liệu nghiên cứu của các trường đại học trên thế giới và một số ý kiến về việc triển khai mô hình liên kết tài liệu nghiên cứu tại Việt Nam
- Ứng dụng Internet of Things vào các dịch vụ thư viện hiện đại: Cơ hội và thách thức
- Thực trạng sách ở nông thôn, miền núi và nhu cầu đọc của trẻ em (cập nhật)
- Yếu tố ngoại ngữ khi áp dụng các mô hình kiến thức thông tin vào giáo dục phổ thông Việt Nam
- Thư viện Quốc gia Việt Nam - Một thế kỷ hình thành, phát triển và chặng đường phía trước
- Tối ưu hoá công tác tổ chức và quản lý hoạt động của các thư viện xã, phường, tủ sách cơ sở khu vực nông thôn huyện ngoại thành Hà Nội