Vài nét về đội ngũ cán bộ giảng dạy ngành thư viện - thông tin học hiện nay

E-mail Print

Đặt vấn đề

Đội ngũ giảng viên luôn là yếu tố quan trọng bậc nhất của công tác đào tạo. Với hướng tiếp cận mới trong phương pháp giảng dạy - lấy người học làm trung tâm, vai trò và năng lực của người thầy càng trở nên quan trọng. Lúc này, người thầy không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn hướng dẫn, tư vấn, theo dõi, điều chỉnh và đánh giá quá trình học tập của người học. Vì vậy, các đơn vị đào tạo ngành thư viện - thông tin học đã và đang rất quan tâm đến việc phát triển đội ngũ giảng viên có đầy đủ năng lực và kỹ năng đảm đương tốt nhiệm vụ của người thầy hiện đại.

Nhằm bước đầu đưa ra đánh giá về thực trạng của đội ngũ giảng viên ngành thư viện - thông tin học, bài viết này trình bày một vài nhận xét về số lượng, nguồn tuyển dụng và trình độ chuyên môn dựa trên việc xem xét các số liệu liên quan tại bốn đơn vị có quá trình xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên ngành thư viện lâu năm nhất của Việt Nam. Đó là các khoa đào tạo ngành thư viện - thông tin thuộc các trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Văn hóa Hà Nội, Đại học Văn hóa Tp. HCM và Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Tp. HCM. Bên cạnh việc nhận xét thực trạng, bài viết cũng đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên hiện nay.

1. Thực trạng đội ngũ giảng viên

Bảng dưới đây trình bày số liệu liên quan đến đội ngũ giảng viên tại bốn đơn vị kể trên. Các số liệu này được dùng làm cơ sở để nhận xét về thực trạng đội ngũ giảng viên ngành thư viện - thông tin học hiện nay.

alt

Số lượng khá ít

Theo số liệu trình bày trong bảng trên, số lượng giảng viên cơ hữu của các đơn vị đào tạo khá ít. Nơi nhiều nhất cũng chỉ có tổng số 14 giảng viên, trong đó có đến ba giảng viên hiện không trực tiếp tham gia giảng dạy vì đang làm nghiên cứu sinh tại nước ngoài. Các đơn vị đều có giảng viên sắp đến tuổi nghỉ hưu vì vậy cần có lực lượng kế tục.

Với số lượng này, tỷ lệ người học trên mỗi giảng viên rất cao. Cá biệt, có đơn vị tỷ lệ này là 81 sinh viên đại học chính quy trên một giảng viên (đó là chưa tính sinh viên của các hệ đào tạo khác). Cũng do số lượng ít nên nhiều trường hợp giảng viên phải đảm nhận giảng dạy đến bốn hoặc năm môn học. Ngoại trừ trường Đại học Văn hóa Hà Nội, do quy định mỗi giảng viên không được đảm nhận quá ba môn học, các đơn vị còn lại đều có giảng viên phụ trách nhiều hơn ba môn học. Chưa kể các giảng viên còn tham gia giảng dạy các môn này và thậm chí cả các môn học khác tại các đơn vị đào tạo, các bậc đào tạo khác. Điều này khiến cho giảng viên khó có khả năng dành thời gian thích đáng cho việc nghiên cứu sâu nội dung giảng dạy, biên soạn giáo án và giáo trình chi tiết, triển khai các phương pháp giảng dạy tích cực cũng như hướng dẫn và kiểm soát quá trình học tập và thực hành của sinh viên. Tương tự như vậy, thật khó để giảng viên thu xếp thời gian và sức lực cho việc thâm nhập thực tế, thực hiện nghiên cứu khoa học và tham gia các sinh hoạt học thuật.

Trước thực tế số lượng giảng viên cơ hữu ít, các đơn vị đào tạo đã tận dụng nguồn thỉnh giảng là giảng viên từ các cơ sở đào tạo khác và các chuyên gia có trình độ cao, nhiều kinh nghiệm thực tiễn từ các cơ quan thông tin - thư viện. Đây là một giải pháp tốt với các ưu điểm như tận dụng được đội ngũ chuyên gia có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tạo ra mối gắn kết giữa đơn vị đào tạo và các cơ sở sử dụng đầu ra của quá trình đào tạo. Tuy vậy, việc sử dụng đội ngũ thỉnh giảng cũng gặp phải rất nhiều bất cập, nhất là khi các trường đại học áp dụng đào tạo theo phương thức tín chỉ, cũng như áp dụng các tiêu chuẩn hoặc tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo. Đào tạo theo tín chỉ đòi hỏi việc bố trí tiến độ giảng dạy phải hợp lý và ổn định, trong khi đó cán bộ thỉnh giảng thường khó có thể đảm bảo được tiến độ theo quy định. Việc đánh giá chất lượng giảng dạy của họ khó thực hiện so với giảng viên cơ hữu. Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng không cho phép đơn vị đào tạo có tỷ lệ cán bộ thỉnh giảng quá cao. Ngoài ra, lực lượng thỉnh giảng ít khi có dịp tham dự vào hoạt động chuyên môn, học thuật của đơn vị đào tạo, cũng như trình bày các trao đổi, phản hồi liên quan đến nội dung, phương pháp và cách quản lý của quá trình dạy và học. Với những bất cập này, sử dụng thỉnh giảng mặc dù là biện pháp tốt trước mắt nhưng không thể là giải pháp thích hợp.

Nguồn tuyển dụng rất hạn chế

Do số lượng giảng viên cơ hữu ít, các trường đều có chủ trương ưu tiên tuyển dụng cho các khoa đào tạo ngành thư viện - thông tin. Tuy nhiên các nguồn tuyển dụng rất hạn chế và chính sách ưu tiên tuyển dụng của các trường cũng chưa thực sự tạo điều kiện giúp các khoa tuyển được nhân sự.

Xem xét các nguồn tuyển dụng, có thể thấy, trong những năm vừa qua nguồn tuyển dụng giảng viên chủ yếu là sinh viên tốt nghiệp loại giỏi của chính đơn vị đào tạo, nguồn thứ hai là cán bộ thư viện có bằng thạc sĩ khoa học thư viện.

Việc tuyển dụng sinh viên giỏi có một vài ưu điểm như các khoa có thể chủ động lựa chọn và bồi dưỡng “nguồn ươm” nhân sự, hứa hẹn lực lượng trẻ tiềm năng cao cho khoa. Tuy nhiên, nguồn tuyển dụng này có khá nhiều điểm bất lợi. Thứ nhất, sinh viên tốt nghiệp được tuyển dụng chưa thể trở thành giảng viên ngay. Do yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ, người chưa có bằng thạc sỹ chưa được công nhận là giảng viên, vì vậy cho dù khoa đã tuyển được nhân sự thì cũng phải dành trọn hai năm cho nhân sự mới theo học và hoàn thành khóa đào tạo thạc sỹ chuyên ngành khoa học thư viện. Thứ hai, sinh viên tốt nghiệp được tuyển dụng chưa có đủ hiểu biết sâu sắc về lý luận chuyên ngành cũng như kinh nghiệm thực tiễn hoạt động của ngành thư viện. Chính vì vậy, nhân sự được tuyển từ nguồn sinh viên tốt nghiệp cần thời gian và phải rất nỗ lực trong việc tự học và thâm nhập thực tế thì mới đảm đương được một môn giảng. Thứ ba, sinh viên tốt nghiệp được tuyển dụng chưa hẳn là nguồn ổn định. Sau bốn năm học đại học, với cơ hội trở thành giảng viên, nhiều tân cử nhân nhanh chóng nắm bắt cơ hội mà chưa nhận thức được đầy đủ những đặc điểm và thách thức của nghề dạy học. Nhiều trường hợp, khi đạt được học vị thạc sỹ và trở thành giảng viên chính thức thì cũng chính là lúc họ tìm thấy những cơ hội nghề nghiệp mới phù hợp với nhu cầu, hoàn cảnh và sở trường của mình hơn. Kết quả là họ xin chuyển công tác và đơn vị đào tạo mất nhân sự. Như vậy, bất lợi của nguồn tuyển dụng từ sinh viên tốt nghiệp loại giỏi là đơn vị tuyển dụng phải dành thời gian đáng kể để nhân sự chuẩn bị đảm nhận được nhiệm vụ và tiềm ẩn nguy cơ mất nhân sự khá cao.

Nguồn tuyển dụng thứ hai là chuyên viên từ các thư viện đã có bằng thạc sỹ khoa học thư viện. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rất khó tuyển dụng được từ nguồn này vì điều kiện tuyển dụng của các trường thường là các ứng viên phải có bằng thạc sỹ chuyên ngành đạt loại giỏi hoặc từ các trường đại học nước ngoài. Thế nhưng những người đạt được yêu cầu này là rất hiếm. Thêm vào đó, công tác giảng dạy đòi hỏi một số kỹ năng sư phạm và giao tiếp mà không phải chuyên viên giỏi nào cũng có hoặc sẵn sàng học và luyện tập như những người tập việc.

Xét về mặt chính sách ưu tiên tuyển dụng, các trường đều dành chỉ tiêu cho các khoa thư viện - thông tin tuyển thêm giảng viên. Tuy nhiên, các hỗ trợ tài chính và sự linh động cần thiết lại không thỏa đáng. Sinh viên tốt nghiệp được tuyển dụng phải dành hai năm để hoàn thành chương trình cao học, vì vậy họ chưa được hưởng lương ngạch giảng viên và vì chưa đứng lớp nên họ không có các khoản thu nhập khác như thù lao giảng dạy, lương ưu đãi cho ngành giáo dục. Bên cạnh đó họ phải tự chi trả ít nhất là 50% chi phí cho việc học cao học. Như vậy, nguồn thu nhập của nhóm nhân sự này rất eo hẹp và có tác động đáng kể đến nỗ lực trau dồi tri thức và kinh nghiệm, cũng như quyết tâm gắn bó với nghề nghiệp. Đối với cán bộ thư viện có bằng thạc sỹ đủ tiêu chuẩn tuyển dụng làm giảng viên, có trường chỉ đồng ý phiên ngang bậc lương khi các ứng viên từng tốt nghiệp đại học loại giỏi, nếu không họ phải thi vào ngạch và bắt đầu từ bậc lương đầu tiên của ngạch giảng viên. Có trường không chấp nhận tuyển dụng nếu ứng viên có bằng thạc sỹ khoa học thư viện nhưng lại có bằng đại học từ ngành học khác.

Số lượng giảng viên có học vị cao còn ít

Bảng thống kê số liệu cho thấy số lượng tiến sỹ của các khoa đào tạo rất ít, nơi nhiều nhất không quá ba và nơi ít nhất có một tiến sỹ. Số lượng giảng viên được đào tạo các bậc học tại các nước tiên tiến không nhiều. Số giảng viên đã từng hoặc đang tham gia công tác thực tiễn khá ít. Với học vị và mức độ thâm nhập thực tế của giảng viên hiện nay, việc đào tạo cao học (ở đây chưa đề cập đến đào tạo tiến sỹ) quả là thách thức quá lớn đối với các đơn vị (ba trong số bốn đơn vị được khảo sát có đào tạo bậc cao học). Với quy định giảng viên phải là tiến sỹ mới được tham gia đào tạo cao học, rõ ràng các đơn vị phải dựa chủ yếu vào nguồn thỉnh giảng để triển khai từ việc giảng dạy đến việc hướng dẫn luận văn cho học viên. Như vậy, một lần nữa các khoa đào tạo lại gặp phải các bất cập của việc sử dụng đội ngũ thỉnh giảng do không có đủ giảng viên cơ hữu có trình độ tiến sỹ.

Tuy nhiên cũng có những tín hiệu đáng mừng như đa số các khoa đều có giảng viên đang theo học bậc tiến sỹ, phần lớn giảng viên tại các khoa đang trong độ tuổi dưới 40 - độ tuổi còn tiếp tục học lên các bậc cao hơn. Thêm vào đó cơ hội học tiến sỹ ngày càng rộng mở cho giảng viên - có thể học trong nước, nước ngoài và từ xa. Như vậy, có cơ sở để hy vọng trong thời gian sắp tới, lực lượng tiến sỹ tại các khoa sẽ được gia tăng.

Theo số liệu và sự phân tích trên, có thể thấy các đơn vị đào tạo ngành thư viện - thông tin học hiện nay cần tiếp tục tập trung vào công tác phát triển nguồn nhân lực, cụ thể là cần tìm ra các biện pháp khả thi cho việc nâng cao chất lượng và số lượng của đội ngũ giảng viên.

2. Một số đề xuất nhằm tăng cường năng lực cho đội ngũ giảng dạy

Việc tăng cường năng lực cho đội ngũ giảng dạy cần dựa vào điều kiện và nhu cầu của từng đơn vị. Vì vậy, ở đây chỉ xin đưa ra một vài đề xuất có thể vận dụng tại tất cả đơn vị đào tạo hiện nay. Các đề xuất này được chia thành ba nhóm: Nâng cao chất lượng, tăng cường số lượng giảng viên cơ hữu và tận dụng nguồn lực từ bên ngoài.

Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên cơ hữu

Việc nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên cơ hữu có thể được thực hiện với các biện pháp cụ thể sau:

- Cử các giảng viên trẻ tham gia các khóa học dài hạn hoặc các lớp văn bằng hai về ngoại ngữ và công nghệ thông tin nhằm tạo ra một đội ngũ giảng viên có khả năng nắm bắt và giảng dạy các môn học về ứng dụng công nghệ thông tin và các công nghệ mới khác.

- Khuyến khích hoặc bắt buộc giảng viên tham gia các chương trình đào tạo sau đại học trong và ngoài nước; yêu cầu các giảng viên có kế hoạch cụ thể cho việc học tập lên những bậc cao hơn. Ban chủ nhiệm khoa cần kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của các cá nhân, đôn đốc và tạo điều kiện để các giảng viên thực hiện kế hoạch đúng tiến độ.

- Yêu cầu giảng viên tham gia các khóa học hoặc hội thảo chuyên ngành hoặc các lĩnh vực liên quan đến công tác thông tin - thư viện.

- Phối hợp với các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước tổ chức các khóa học ngắn hạn để cập nhật kiến thức cho giảng viên, chủ yếu tập trung vào công nghệ mới, những vấn đề mới trong nghiệp vụ thông tin - thư viện và bồi dưỡng các kỹ năng cơ bản như kỹ năng sử dụng công nghệ mới, kỹ năng truyền thông, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng ngoại ngữ.

- Thường xuyên và định kỳ tổ chức các buổi sinh hoạt học thuật với nội dung là các vấn đề mới trong lý luận và thực tiễn hoạt động thông tin - thư viện, những vấn đề đang gây tranh cãi trong giới chuyên môn trong và ngoài nước hoặc những vấn đề tuy không mới nhưng các giảng viên còn chưa nắm vững. Báo cáo viên có thể là giảng viên của khoa hoặc là các chuyên gia từ các cơ sở nghiên cứu, đào tạo khác và các cơ quan thông tin - thư viện.

- Yêu cầu giảng viên nghiên cứu khoa học thông qua nhiều hình thức như viết bài báo đăng trên các tạp chí khoa học, viết bài tham luận cho các hội thảo khoa học và thực hiện các đề tài nghiên cứu các cấp. Nên tổ chức các nhóm nghiên cứu theo những hướng cơ bản với sự hướng dẫn của các giảng viên giàu kinh nghiệm, có trình độ cao. Các khoa nên phân công giảng viên chuyên theo dõi một lĩnh vực/mảng nhất định trong hoạt động thông tin - thư viện của vùng, quốc gia và quốc tế để kịp thời nắm bắt được những vấn đề cần giải quyết, những thay đổi về nghiệp vụ hoặc xu hướng phát triển trong lĩnh vực đó để có thể kịp thời điều chỉnh nội dung đào tạo hoặc định hướng thích hợp cho hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên và sinh viên.

- Tăng cường việc dự giờ lên lớp giữa các giảng viên. Kết quả dự giờ phải được xử lý nghiêm túc và phổ biến rút kinh nghiệm kịp thời cho các giảng viên trong khoa.

- Phân công các giảng viên giàu kinh nghiệm hướng dẫn các giảng viên trẻ về kiến thức chuyên môn, kỹ năng sư phạm như cách soạn giáo án, cách trình bày bài giảng cũng như kinh nghiệm xử lý các tình huống có thể gặp trong thực tế giảng dạy.

- Tạo điều kiện cho giảng viên thâm nhập thực tế. Các khoa cần xây dựng mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với các cơ quan thông tin - thư viện trong thành phố và khu vực để tạo điều kiện cho giảng viên làm cộng tác viên hoặc thực hiện các trao đổi nghiệp vụ, các nghiên cứu thực tế. Từ đó, giảng viên có điều kiện học hỏi, tích lũy kinh nghiệm thực tế. Đối với giảng viên trẻ, các khoa cần có qui định bắt buộc giảng viên thực tập trong các cơ quan thông tin - thư viện trong một thời hạn cụ thể và xem đây là một tiêu chí để đánh giá chất lượng giảng viên hàng năm. Ngoài ra, các khoa nên quan tâm đến việc tổ chức các chương trình đào tạo tiếp tục cho đội ngũ nhân viên của các cơ quan thông tin - thư viện. Việc thiết kế và thực hiện các chương trình đào tạo tiếp tục sẽ là thử thách lớn đối với giảng viên vì công tác này đòi hỏi giảng viên phải liên tục bổ sung, cập nhật kiến thức để đáp ứng yêu cầu thực tế. Mặt khác, đây cũng chính là cơ hội để giảng viên học hỏi, tích lũy kinh nghiệm thực tế và nắm bắt được yêu cầu thực tế từ chính những học viên của mình.

- Khuyến khích giảng viên tích cực tham gia các hoạt động của các hiệp hội ngành nghề.

- Tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế như mời chuyên gia nước ngoài đến làm việc theo các chương trình hợp tác, ví dụ như chương trình trao đổi học giả Fulbright, để tạo cơ hội cho các giảng viên, đặc biệt là giảng viên trẻ học tập kiến thức mới, kinh nghiệm và cách làm việc chuyên nghiệp; chủ động tìm kiếm học bổng để gửi giảng viên theo học các chương trình ngắn hạn hoặc dài hạn ở nước ngoài.

Tăng số lượng giảng viên cơ hữu

Mặc dù nguồn tuyển dụng từ sinh viên tốt nghiệp có những điểm bất lợi như đã phân tích ở trên, nhưng đây vẫn là một nguồn mà các khoa có thể chủ động lên kế hoạch. Vì vậy, hàng năm, các khoa cần có kế hoạch chọn lọc và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên trẻ từ các sinh viên giỏi đang học năm cuối. Ngoài ra, các khoa nên kiến nghị với nhà trường có chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp ngành công nghệ thông tin hoặc cán bộ thông tin - thư viện có năng lực từ các cơ sở để phát triển cả về số lượng và chất lượng cho đội ngũ giảng viên của khoa.

Việc tuyển dụng giảng viên phải được thực hiện theo đúng qui trình bao gồm các công việc kiểm tra, đánh giá về tư cách, năng lực chuyên môn và khả năng sư phạm thông qua cuộc phỏng vấn sơ tuyển và dạy thử trước Hội đồng khoa học và đào tạo của khoa.

Tận dụng nguồn lực bên ngoài

Mặc dù sử dụng lực lượng thỉnh giảng có những điểm bất cập như đã nêu, nhưng trong điều kiện số lượng giảng viên cơ hữu còn ít và số giảng viên trẻ chưa có kinh nghiệm thực tiễn khá đông thì tận dụng đội ngũ cán bộ thỉnh giảng vẫn được coi là một biện pháp thích hợp. Tuy nhiên, các khoa cần chú ý nâng cao hiệu quả của đội ngũ cán bộ thỉnh giảng. Việc này có thể thực hiện theo những hướng sau:

- Ngoài đội ngũ các cán bộ giảng dạy và chuyên gia đang công tác tại các cơ quan thông tin - thư viện, các khoa nên có chính sách thu hút các cán bộ giảng dạy hoặc các chuyên gia giỏi đã nghỉ hưu nhưng vẫn còn khả năng và nhiệt tình tham gia giảng dạy. Đây là đội ngũ có thể thực hiện tốt công tác giảng dạy vì họ có kinh nghiệm thực tiễn, kinh nghiệm sư phạm, có thời gian và có tâm huyết với công tác thông tin - thư viện nói chung. Nếu tổ chức tốt, những chuyên gia này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng cho đội ngũ kế thừa là các giảng viên trẻ.

- Việc mời một cán bộ thỉnh giảng mới, chưa có kinh nghiệm giảng dạy cần thực hiện theo đúng qui trình như khi tuyển một giảng viên cơ hữu, nghĩa là phải có sự kiểm tra, đánh giá về năng lực chuyên môn và khả năng sư phạm thông qua việc soạn thử giáo án và dạy thử trước Hội đồng khoa học và đào tạo của khoa.

- Thực hiện việc dự giờ để đánh giá chất lượng giảng dạy của cán bộ thỉnh giảng.

- Có kế hoạch bồi dưỡng để các giảng viên cơ hữu có thể đảm nhận một phần nội dung giảng dạy và tiến tới có thể thay thế cán bộ thỉnh giảng trong một thời gian nhất định nhằm tránh tình trạng bị động khi cán bộ thỉnh giảng không thể thu xếp được thời gian theo kế hoạch giảng dạy đã định.

Ngoài ra, lãnh đạo cũng như từng giảng viên của các đơn vị đào tạo nên chủ động thực hiện các chương trình hoặc hoạt động chia sẻ kiến thức, trao đổi kinh nghiệm liên quan đến học thuật và chương trình đào tạo giữa đồng nghiệp trong và ngoài nước. Việc tiếp thu kinh nghiệm và kiến thức từ các đơn vị khác cũng là một cách tận dụng chất xám từ bên ngoài.

Kết luận

Về mặt nguyên tắc, đảm bảo đội ngũ cán bộ giảng dạy vừa mạnh về chất lượng, vừa đủ về số lượng là một nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên của các đơn vị đào tạo ngành thư viện - thông tin học. Trước thực trạng số lượng và trình độ của giảng viên còn hạn chế, nhiệm vụ này cần được các đơn vị đào tạo đặt vào vị trí trọng tâm và ưu tiên hàng đầu. Chính đội ngũ cán bộ giảng dạy có năng lực cao sẽ một mặt giúp đảm bảo chất lượng đào tạo, mặt khác giúp tạo ra các luồng sinh khí làm mới nội dung cũng như phương pháp giảng dạy. Điều này sẽ giúp công tác đào tạo không những đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, mà còn giúp thúc đẩy các khuynh hướng phát triển tiên tiến cho ngành thư viện - thông tin Việt Nam.

Tài liệu tham khảo

1. http://tvtth.hcmussh.edu.vn

2. http://flis.huc.edu.vn/

3. http://www.hcmuc.edu.vn/

4. http://ussh.vnu.edu.vn

_________

TS. Nguyễn Hồng Sinh - TS. Ngô Thanh Thảo

Trường ĐHKHXHNV Tp.HCM

Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam. - 2013. - Số 5. - Tr. 8-13.


Đọc thêm cùng chuyên mục: