Thư viện công cộng trong bức tranh xoá đói giảm nghèo

E-mail Print

Đặt vấn đề

Theo World Bank, người nghèo là người có mức thu nhập dưới 1,9USD/ngày [15]. Theo Hội Thư viện Hoa Kỳ, người nghèo là những người “… chịu ảnh hưởng bởi một loạt những hạn chế bao gồm thất học, bệnh tật, bị tách biệt về mặt xã hội, vô gia cư, chịu cảnh đói khát, bị kỳ thị đối xử…” [8]. Ở Việt Nam, theo số liệu thống kê của World Bank, người nghèo chiếm tỷ lệ 3,23% (2012) và 3,06% (2014) [16]. Theo số liệu thống kê của Ngân hàng phát triển Châu Á (tháng 4/2017), ở Việt Nam có 7% tổng dân số sống dưới ngưỡng nghèo quốc gia [9]. Theo Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/ 2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020, chuẩn nghèo đa chiều Việt Nam được xây dựng dựa trên một số tiêu chí cụ thể, trong đó bao gồm “hộ nghèo là hộ gia đình không có thành viên nào sử dụng thuê bao điện thoại và Internet, gia đình không có tài sản nào trong số các tài sản sau: tivi, đài, máy vi tính; không nghe được hệ thống loa đài truyền thanh xã/ thôn” [7].

Như vậy, có thể thấy rõ rằng người nghèo có mức sống rất thấp, gặp rất nhiều thiệt thòi, ít có cơ hội tiếp cận thông tin và các dịch vụ viễn thông. Nghiên cứu của nhiều nước cho thấy lợi ích thực sự của tăng trưởng kinh tế ít đến được với nhóm người chịu thiệt thòi này.

1. Nhu cầu thông tin của người nghèo

Người nghèo luôn ở trong tình trạng “nghèo thông tin”. Với cuộc sống đầy bươn chải, luôn trong tình trạng thiếu thốn về mọi mặt, những thông tin mà người nghèo cần luôn gắn liền với nhu cầu sống cơ bản của họ, cụ thể là:

- Thông tin về các chương trình/ chính sách xoá đói, giảm nghèo của nhà nước và địa phương;

- Thông tin liên quan đến các cơ hội việc làm, giáo dục, y tế, hỗ trợ và tư vấn pháp lý, phúc lợi xã hội;

- Thông tin phục vụ cho sự phát triển năng lực của bản thân…

2. Thư viện công cộng trong việc đáp ứng nhu cầu thông tin cho người nghèo

Khi đề cập đến thư viện công cộng như một “thiết chế dân chủ” không có nghĩa là chúng ta đơn thuần đặt “người nghèo” bên cạnh “người giàu”; điều mà chúng ta muốn nói đến là sự bình đẳng của TẤT CẢ MỌI NGƯỜI trong việc tiếp cận và sử dụng thư viện công cộng. Nội dung này đã được thể hiện trong một số văn bản và báo cáo trong lĩnh vực thư viện, cụ thể là:

- Nghị định 72/2002/NĐ-CP ngày 6/8/2002 của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Thư viện nêu rõ “Thư viện công cộng là thư viện có vốn tài liệu tổng hợp thuộc mọi ngành, lĩnh vực khoa học, phục vụ rộng rãi mọi đối tượng bạn đọc” [6].

- Hội Thư viện Hoa Kỳ nêu rõ: “Hội Thư viện Hoa Kỳ khuyến khích sự bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin của tất cả mọi người và thừa nhận nhu cầu cấp bách cần đáp ứng của số lượng ngày càng gia tăng của trẻ em, người trưởng thành và các hộ gia đình thuộc diện nghèo trên đất nước Hoa Kỳ. Do đó, điều quan trọng là các thư viện nhận thức được vai trò của mình trong việc giúp người nghèo tham gia đầy đủ vào một xã hội dân chủ. Cần có những hoạt động đào tạo và phát triển năng lực cần thiết để giúp cho các nhân viên thư viện nắm bắt được nhu cầu của người nghèo và cung cấp các dịch vụ phù hợp. Và với Hội Thư viện Hoa Kỳ, các cơ chế phối hợp của các hoạt động vì người nghèo cần được tăng cường.

Hội Thư viện Hoa Kỳ sẽ triển khai những mục tiêu đề ra dựa trên các hoạt động cụ thể sau:

+ Thúc đẩy việc loại bỏ tất cả các rào cản đối với các dịch vụ thư viện và thông tin, đặc biệt là các khoản phí và các khoản phí mượn tài liệu quá hạn.

+ Thúc đẩy việc sản xuất, phát hành, bổ sung các tài liệu về xoá đói giảm nghèo trong các thư viện, tạo điều kiện cho mọi người đến thư viện đều có thể dễ dàng tiếp cận các tài liệu này.

+ Đảm bảo việc đóng góp kinh phí đầy đủ, ổn định và liên tục cho các hoạt động hỗ trợ người nghèo theo quy định cũng như các hoạt động thư viện chuyên biệt phục vụ mọi đối tượng thuộc diện nghèo.

+ Tăng cường các hoạt động tập huấn cho người làm thư viện để cung cấp các kiến thức sử dụng kinh phí công trong việc phát triển các dịch vụ thư viện dành cho người nghèo.

+ Bổ sung các hoạt động và dịch vụ thư viện dành cho người có thu nhập thấp vào mục chi thường xuyên của ngân sách thư viện, tránh thụ động chờ các khoản tài trợ từ các cá nhân và chính quyền liên bang.

+ Phân bổ ngân sách một cách cân đối cho việc bổ sung tài liệu, trang thiết bị thư viện phục vụ người nghèo.

+ Kêu gọi sự hỗ trợ cho các nguồn lực thư viện phục vụ người nghèo từ các cấp chính quyền và kêu gọi tài trợ từ khu vực tư nhân.

+ Thông qua các hoạt động của thư viện, nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của các tài nguyên và dịch vụ thư viện liên quan đến hoạt động xoá đói giảm nghèo.

+ Xác định các tiêu chí đánh giá kết quả thông qua việc khuyến khích đánh giá nhu cầu của cộng đồng, đặc biệt chú trọng vào việc đánh giá nhu cầu của người thu nhập thấp, thu thập ý kiến của người nghèo và của các bên ủng hộ hoạt động chống đói nghèo.

+ Đề xuất việc bổ sung nhân sự là đại diện nhóm người nghèo và những người ủng hộ hoạt động chống đói nghèo vào Hội đồng nhân dân địa phương; thành lập các tổ tư vấn cho người nghèo về các hoạt động dành cho người có thu nhập thấp; thư viện sẽ hỗ trợ chi phí đi lại và sinh hoạt phí cho các thành viên này.

+ Tăng cường hoạt động đào tạo cho người làm thư viện, giúp họ nhận thức rõ và có thái độ tích cực trong hoạt động phục vụ người nghèo cũng như hiểu được những cản trở khác trong việc sử dụng thư viện của người nghèo.

+ Thúc đẩy sự hợp tác giữa các thư viện và các cơ quan, tổ chức, các tổ chức tư vấn để thiết lập các hoạt động và dịch vụ tiếp cận người nghèo một cách hiệu quả” [8].

- Báo cáo của Hội đồng Thư viện bang New South Wales (Ôxtrâylia) nêu rõ: “Để có thể có những đóng góp tích cực cho các vấn đề liên quan đến an sinh xã hội, thư viện công cộng cần là các địa chỉ thân thiện và luôn mở rộng để chào đón những đối tượng sống bên lề xã hội, trong đó có người vô gia cư” [4].

Trong cuộc chiến chống đói nghèo, tri thức là một vũ khí quan trọng. Vốn tài liệu phong phú, đa dạng, bao quát nhiều lĩnh vực nội dung và thường xuyên được cập nhật của thư viện công cộng sẽ cung cấp cho mọi người những thông tin hữu ích và cũng là yếu tố thiết yếu mang đến sự tiếp cận bình đẳng cho mọi đối tượng sử dụng thư viện, trong đó có người nghèo.

3. Những rào cản trong việc sử dụng các dịch vụ thư viện công cộng của người nghèo

Từ phía người nghèo

Việc thiếu thông tin có thể coi là rào cản đầu tiên và cơ bản đối với người nghèo. Người nghèo dành hầu như toàn bộ quỹ thời gian của mình vật lộn với công cuộc mưu sinh, đời sống vật chất và tinh thần đều được duy trì ở mức thấp hơn so với các đối tượng khác trong xã hội. Do đó, nếu chúng ta quá kỳ vọng vào việc người nghèo (mà rất nhiều trong số họ có trình độ học vấn thấp) nắm bắt được những thông tin không trực tiếp liên quan đến những nhu cầu cơ bản của họ là một thách thức không nhỏ trong công tác truyền thông của mọi đơn vị, mà các thư viện công cộng cũng không là một ngoại lệ.

Nhiều tài liệu nghiên cứu cho thấy, người nghèo rất khó nắm bắt được những thông tin về những quyền cơ bản của con người. Và thậm chí, ngay cả khi những thông tin đó có thể tiếp cận được thì người nghèo cũng thiếu đi những kỹ năng cần thiết để có thể khai thác và tận dụng được các lợi ích của chúng. 

Ngoài ra, sự dịch chuyển rất nhiều của người nghèo vì công cuộc mưu sinh, sự thiếu hụt thời gian cũng là những rào cản rất lớn khiến người nghèo khó có thể tiếp cận và sử dụng các thư viện công cộng giống như các nhóm đối tượng khác trong xã hội.

Từ phía các thư viện công cộng

Có thể điểm qua một số yếu tố thường gặp có thể được xem là rào cản với người nghèo: địa điểm thư viện (nhiều khi không phù hợp), thời gian mở cửa phục vụ của thư viện (chưa linh hoạt), mức phí trong thư viện (còn cao), sự phù hợp, tương thích của vốn tài liệu với hoàn cảnh và nhu cầu của người nghèo, sự chuyên nghiệp của nhân viên thư viện trong việc phục vụ đối tượng đặc biệt này…

Ngoài ra, theo Gieskes (2009) [13], các thư viện công cộng chưa có được một bộ tài liệu hướng dẫn chi tiết về công tác phục vụ đối tượng đặc biệt này. Đây là cơ sở quan trọng để các thư viện có được định hướng đúng đắn trong việc phục vụ người nghèo. Theo một nghiên cứu khảo sát của Hội Thư viện Hoa Kỳ, nhiều người làm thư viện công cộng cho biết họ hoàn toàn không biết đến các quy định về các dịch vụ phục vụ người nghèo của thư viện mình. Nhiều nhân viên thư viện chia sẻ: thư viện nơi họ làm quan niệm rằng người nghèo là những người sử dụng máy tính công cộng, là những người không tham gia các chương trình học tập tại bậc cao đẳng, đại học, là những người thường xuyên gây phiền toái… Như vậy, bản thân những người làm thư viện công cộng cũng chưa được trang bị đầy đủ kiến thức về vấn đề đói nghèo và giải quyết đói nghèo - điều đó phải chăng thể hiện sự chưa sẵn sàng và thiếu đi những nỗ lực cần thiết của các thư viện công cộng trong việc hỗ trợ người nghèo được tiếp cận gần hơn với các dịch vụ và vốn tài liệu của thư viện.

4. Điểm sáng từ phía các thư viện công cộng

Có thể nói, tính đến thời điểm hiện tại, sự thành công của Chương trình Thư viện toàn cầu của Bill & Melinda Gates Foundation (BMGF) được coi là mảng sáng tích cực trong bức tranh xoá đói giảm nghèo của các thư viện công cộng trên toàn cầu. Với tiêu chí rất nhân văn và vô cùng sâu sắc “để cải thiện cuộc sống của hơn 1 tỷ người dân trên thế giới đang trong tình trạng nghèo đói thông tin vào năm 2030, hơn 320.000 thư viện công cộng sẽ là những địa chỉ phục vụ cộng đồng phù hợp, có thể cung cấp thông tin với những công nghệ phù hợp cho cộng đồng” [18], BMGF đã triển khai các dự án ở trên 25 quốc gia, trong đó có Việt Nam. Các thư viện công cộng được Dự án tài trợ đều được nâng cấp các trang thiết bị công nghệ, cho phép người dân được truy cập Internet miễn phí, tập huấn cho nhân viên thư viện… Sự thành công của Chương trình đã giúp các thư viện công cộng thực hiện tốt hơn công tác hỗ trợ người nghèo và những người sống ở vùng đặc biệt khó khăn có cơ hội được tiếp cận công nghệ thông tin một cách bình đẳng và hiệu quả, được thụ hưởng những lợi ích kinh tế - xã hội nhờ tiếp cận thông tin.

5. Nhìn lại thực tiễn Việt Nam

Ở Việt Nam, khi đề cập đến các chương trình hành động quốc gia, chúng ta nói nhiều đến các mục tiêu: “xoá đói giảm nghèo”, “đưa miền núi tiến kịp miền xuôi” và “đẩy lùi khoảng cách giữa các vùng miền”. Trong nền kinh tế tri thức, thông tin tạo ra sự thay đổi và để đạt được những mục tiêu kể trên, sự đóng góp của hệ thống thư viện công cộng vào mọi hoạt động của đời sống xã hội là không thể phủ nhận. Ở những vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, sự hiện diện của thư viện xã - thư viện cơ sở gần gũi nhất với người dân, với vốn tài liệu dù rất khiêm tốn, cũng sẽ phần nào đáp ứng được nhu cầu thông tin của người nghèo khi mà các thư viện huyện hay thư viện tỉnh đều ở xa, không phải người dân nào cũng có thể tiếp cận được. Quan tâm, đầu tư cho các thư viện xã ở Việt Nam là một chủ trương đúng đắn và chiến lược trong công cuộc xoá đói giảm nghèo. Dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy cập Internet công cộng tại Việt Nam” (2011-2016) do Quỹ Bill & Melinda Gates tài trợ với sự đầu tư cho hơn 30% thư viện xã của 40 tỉnh trên cả nước đã thực sự hỗ trợ người nghèo Việt Nam trong việc tiếp cận thông tin. Người dân có thể sử dụng Internet miễn phí tại 1.900 điểm truy cập để tiếp cận trực tuyến các tài liệu số hoá có nội dung về giáo dục, văn hoá giải trí, y tế sức khỏe, nông nghiệp, tra cứu các văn bản chính sách, tìm kiếm và truy cập các video hướng dẫn các hoạt động khuyến nông cũng như các thông tin hữu dụng khác. Với sự phối hợp triển khai của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hội Khuyến học, Hội Nông dân, Hội Người khuyết tật, Tổ chức Nông lương của Liên Hiệp Quốc (FAO)… công tác truyền thông của Dự án cũng được tăng cường nhằm mục đích vận động, khuyến khích mọi đối tượng dân cư, đặc biệt là người nghèo được tiếp cận và thụ hưởng những lợi ích mà Internet mang lại và áp dụng vào cuộc sống. Trong báo cáo đánh giá tại Hội nghị tổng kết Dự án, bà Deborah Jacob - Giám đốc Chương trình Thư viện toàn cầu, Quỹ Bill & Melinda Gates đã nói “Dự án Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy cập Internet công cộng tại Việt Nam đã kết thúc với thành công đáng kinh ngạc. Tôi có niềm tin vào việc triển khai và duy trì hiệu quả của Dự án. Qua thời gian, phía Việt Nam đã thực hiện các cam kết và Quỹ Bill & Melinda Gates tự hào vì đã được sát cánh cùng Chính phủ và các đối tác góp phần cải thiện đời sống của người dân Việt Nam” [5]. Và để đảm bảo tính bền vững của Dự án, ngày 28/6/2017, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã có văn bản về kế hoạch phối hợp duy trì bền vững kết quả Dự án, giai đoạn 2017 - 2020 [4]. Theo văn bản này, các bên liên quan sẽ cùng nỗ lực để đảm bảo mục tiêu dài hạn của Dự án: “…hỗ trợ người dân, đặc biệt là người nghèo, nhóm thiệt thòi ở những vùng khó khăn được tiếp cận công nghệ một cách bình đẳng, hiệu quả, bền vững, được hưởng lợi do công nghệ thông tin mang lại bằng cách nâng cao năng lực phục vụ và cách thức cung cấp thông tin qua máy tính và Internet công cộng tại thư viện công cộng và điểm Bưu điện văn hoá xã”. Một trong hai mục tiêu cụ thể của kế hoạch phối hợp là “Thu hút, tăng cường số lượng, lượt người dân thuộc nhóm đối tượng đích của Dự án đến sử dụng dịch vụ truy cập máy tính công cộng tại các thư viện công cộng và điểm Bưu điện văn hoá xã triển khai kế hoạch; phấn đấu hàng năm tăng số lượng người sử dụng 3% và lượt người sử dụng 5-7%”. Nếu đạt được những mục tiêu này thì “máy tính và Internet” đã và sẽ thực sự “làm giàu thêm cuộc sống” của rất nhiều người dân có hoàn cảnh khó khăn ở Việt Nam.

Tuy nhiên, hoạt động của các thư viện công cộng cấp xã ở Việt Nam, những thư viện “gần” với người nghèo nhất lại ít có triển vọng. Theo thống kê của Vụ Thư viện, số lượng các thư viện cấp xã trên toàn quốc đang có xu hướng giảm. Nếu như vào năm 2013, cả nước có hơn 4.000 thư viện cấp xã [1] thì đến năm 2017, số lượng thư viện cấp xã giảm xuống còn 2.716 [3]. Các thư viện cấp xã hầu hết đều đang đối mặt với những khó khăn không nhỏ: không có trụ sở độc lập, chủ yếu được đặt trong điểm Bưu điện văn hoá xã hoặc nằm trong hội trường nhà văn hoá khu dân cư, kinh phí hoạt động gần như không có, vốn tài liệu nghèo nàn, ít được cập nhật. Đội ngũ nhân viên thư viện xã đa phần là kiêm nhiệm, ít được tập huấn chuyên sâu về nghiệp vụ thư viện… Với rất nhiều cái “khó”, cái “thiếu” như vậy, chắc sẽ cần một thời gian dài nữa để các thư viện xã thực sự trở thành địa chỉ văn hoá - thông tin cơ sở cần thiết cho mọi người và phục vụ việc kết nối người dân với tri thức một cách hiệu quả.

6. Một số khuyến nghị dành cho các thư viện công cộng

Những bạn đọc mà người làm thư viện công cộng thường xuyên gặp nhất, những người thường chọn cách tìm gặp các nhân viên thư viện nhất (để tìm kiếm câu trả lời cho vấn đề của mình) lại là cộng đồng không bao gồm người nghèo. Rất khó để có thể nhìn thấy những gương mặt đại diện cho nhóm người nghèo trong các cuộc họp liên quan đến việc xây dựng các chính sách, kế hoạch quan trọng của thư viện. Đơn giản là vì người nghèo quá bận rộn với công cuộc mưu sinh và luôn mang tâm lý yếm thế “chắc gì những gì mình nói sẽ được lắng nghe”. Tác giả Sanford Berman (2001) [10] đã có một cách lý giải khác cho vấn đề này khi cho rằng “Sự thật đơn giản là người nghèo không muốn sử dụng các nguồn lực và thông tin của thư viện như cách những người có thu nhập đầy đủ vẫn làm. Nguyên nhân cơ bản là: sự đói nghèo và hệ thống kinh tế - xã hội cho phép điều đó xảy ra”.

Như ở trên đã nói, thư viện công cộng là thiết chế dân chủ, tạo ra sự bình đẳng cho mọi đối tượng trong việc tiếp cận vốn tài liệu và dịch vụ thư viện. Và trong cuộc chiến chống đói nghèo - thông tin và tri thức chính là thứ vũ khí quan trọng giúp người nghèo vượt lên nghịch cảnh và vượt lên chính bản thân mình. Vậy, thư viện công cộng cần làm gì để người nghèo có thể tiếp nhận những vũ khí đó một cách hiệu quả nhất?

Đầu tiên, các thư viện cần sớm có tài liệu hướng dẫn công tác phục vụ người nghèo

Điều này là rất cần thiết bởi hiện tại rất nhiều thư viện công cộng trên thế giới vẫn đang lúng túng với câu hỏi “Làm thế nào để chúng tôi có thể phục vụ được người nghèo”? Theo Holt (2006) [14], câu hỏi chuẩn xác hơn và cũng phức tạp hơn mà các thư viện cần trả lời là: “Thư viện của chúng tôi cần xây dựng và gắn các dịch vụ của mình vào đời sống của người nghèo như thế nào để họ có thể được hưởng lợi từ những gì mà chúng tôi có thể làm được?” Sự khác biệt không chỉ nằm trong câu chữ. Câu hỏi thứ nhất chịu ảnh hưởng của tư duy thụ động theo hướng “cung - cầu” dịch vụ thư viện, theo kiểu: nếu chúng ta cho người nghèo cái này, cái kia… thì người nghèo sẽ đến thư viện! Câu hỏi thứ hai mang tính tương tác nhiều hơn, thể hiện được một quá trình (thư viện tìm ra cái cần làm để giúp người nghèo) và kết quả của quá trình đó là người nghèo sẽ được thụ hưởng lợi ích gì?

Thư viện cần đa dạng hoá các hoạt động của mình,cụ thể là:

- Phát triển hơn nữa các hoạt động truyền thông, tiếp cận cộng đồng. Mọi người đều rất quen thuộc với các buổi trưng bày, giới thiệu sách, các cuộc thi, các buổi nói chuyện, toạ đàm… do thư viện công cộng tổ chức. Đây được xem là cách quảng bá cho hoạt động thư viện và cũng là cách tiếp cận cộng đồng khá hiệu quả trong các thư viện công cộng. Thư viện thành phố Toronto (Canada) có cách làm rất hay là kêu gọi sự tham gia của bạn đọc thư viện và cộng đồng vào công cuộc xoá đói giảm nghèo [17]. Bất kỳ ai có các đề xuất, ý tưởng hoặc giải pháp cho các vấn đề mà thư viện đang đối mặt trong cuộc chiến xoá đói giảm nghèo đều được mời tham gia sự kiện Hackathon do Thư viện tổ chức. Rất nhiều sáng kiến, đề xuất của cộng đồng đã được gửi đến Thư viện - nhận thức của cộng đồng về vấn đề xoá đói giảm nghèo, cũng như trách nhiệm của mỗi người dân trong cuộc chiến chống đói nghèo đã được nâng cao. Đây là cách làm sáng tạo trong việc tiếp cận và thu thập ý kiến cộng đồng. Tiếp cận cộng đồng thành công, nắm bắt được nhu cầu chung của cộng đồng, các thư viện công cộng sẽ có những điều chỉnh phù hợp và kịp thời trong hoạt động phục vụ bạn đọc.

- Tăng cường các dịch vụ thư viện lưu động. Đây được xem là dịch vụ thư viện linh hoạt nhất, phù hợp nhất với người nghèo ở mọi quốc gia.

- Tổ chức các hoạt động tập huấn dành cho người nghèo, đặc biệt là trẻ em và thanh thiếu niên nghèo - không chỉ cung cấp cho họ các kiến thức mà còn các kỹ năng tìm kiếm và đánh giá thông tin. Các lớp tập huấn liên quan đến kiến thức tin học căn bản là một hoạt động có ý nghĩa với hoạt động xoá đói giảm nghèo vì rào cản về công nghệ tạo ra sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin. Việc tiếp cận với Internet không chỉ giúp người nghèo được tiếp cận thông tin trực tuyến một cách đơn thuần mà rộng hơn là giúp người nghèo có được sự kết nối trực tuyến với tất cả. Theo Beyond Access (2012) [11], một nghiên cứu gần đây về các thư viện công cộng cho thấy: đối tượng sử dụng thư viện công cộng thừa nhận sự tác động mang tính tích cực của Internet đến cuộc sống của họ trong các nội dung về y tế, giáo dục, tiết kiệm thời gian, thu nhập... Các kỹ năng được cung cấp trong các lớp tập huấn còn giúp người nghèo từng bước được tham gia vào hoạt động học tập suốt đời.

- Phối hợp với các tổ chức cộng đồng khác trong việc cung cấp thông tin một cách chủ động cho người nghèo. Các thư viện có thể thiết lập các trang thông tin trên các nền tảng truyền thông xã hội trực tuyến (blog, facebook…) để chia sẻ, cập nhật thông tin về các hoạt động sắp tới của thư viện dành cho người nghèo, cũng như những chính sách liên quan trực tiếp đến người nghèo, những hoạt động xoá đói giảm nghèo do các cơ quan địa phương tổ chức.

- Tập huấn cho người làm thư viện trong việc phục vụ người nghèo, đặc biệt là trong phương thức giao tiếp và đánh giá nhu cầu của người nghèo. Người làm thư viện công cộng thường chỉ tập trung nhiều vào việc thu thập các số liệu thống kê sử dụng vốn tài liệu thư viện, các bảng khảo sát, trưng cầu ý kiến bạn đọc, các số liệu thống kê mang tính định lượng, các bản đóng góp ý kiến từ phía bạn đọc rồi tổng hợp, xử lý các số liệu này. Và như vậy, theo tác giả Gehner (2010) [12], người làm thư viện đã tỏ ra là mình quá độc lập trong việc xác định nhu cầu của người khác.

Khi làm việc với người nghèo, hầu hết người làm thư viện công cộng đều chỉ chú tâm đến chữ “nghèo” của người nghèo, từ đó dẫn đến việc xây dựng các quyết sách chỉ căn cứ chủ yếu dựa trên nhu cầu - điều đó “chỉ đảm bảo được sự tồn tại mà không dẫn đến sự đổi thay hoặc phát triển đáng kể của cộng đồng”. Tác giả Gehner (2010) [12] đề xuất một cách tiếp cận người nghèo hiệu quả hơn và cũng nhân văn hơn: tìm hiểu năng lực của chính những người nghèo đó, hiểu được kỹ năng riêng, trải nghiệm bản thân riêng, tầm nhìn và suy nghĩ riêng của họ, tạo cơ hội để họ được chia sẻ, được lắng nghe... Nếu tất cả người làm thư viện công cộng đều có cùng suy nghĩ: làm việc vì người nghèo (chứ không phải là làm việc cho người nghèo) thì mọi hoạt động của thư viện sẽ góp phần không nhỏ trong việc nâng cao năng lực cho nhóm đối tượng đặc biệt này.

Kết luận

Cuộc chiến chống đói nghèo vẫn đang ở những bước đầu tiên. Các thư viện công cộng nên đầu tư hơn nữa cho các hoạt động hỗ trợ cộng đồng cả về chiều rộng và chiều sâu. Nếu thư viện công cộng làm tốt việc trang bị các kỹ năng thông tin cho người nghèo, tạo điều kiện thuận lợi để người nghèo được tiếp cận với thông tin và nhận thức được quyền được tiếp cận thông tin của họ, thu hẹp dần khoảng cách công nghệ trong xã hội thì chắc chắn, tư duy của người nghèo sẽ ít nhiều được thay đổi. Trong nguyên nhân sâu xa của đói nghèo đâu đó có bóng dáng của một tư duy cũ. Nếu chỉ tài trợ cho các nhu cầu căn bản cho ngày hôm nay mà thiếu đi sự cung cấp các kỹ năng cần thiết để dẫn đến sự thay đổi trong tư duy thì chắc chắn người nghèo sẽ vẫn chỉ là người nghèo trong ngày mai với những nhu cầu căn bản tương tự. Và các thư viện công cộng đã đủ tự tin, sẵn sàng thay đổi tư duy của chính mình về vai trò của họ trong cuộc chiến chống đói nghèo chưa?

Muốn giúp người nghèo, phải thực sự biết họ cần gì!

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Huy An. Thư viện nông thôn: ai đến, ai xem? http://www.qdnd.vn/van-hoa-giao-duc/doi-song-van-hoa/thu-vien-nong-thon-ai-den-ai-xem-484890. Truy cập ngày 25/5/2018.

2. Đặng Nguyên Anh. Nghèo đa chiều ở Việt Nam, một số vấn đề chính sách và thực tiễn. - H.: Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, 2015. http://www.vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song27/cuoc-song-quanh-ta46/ngheo-da-chieu-o-viet-nam-mot-so-van-de-chinh-sach-va-thuc-tien. Truy cập ngày 25/5/2018.

3. Nguyễn Thu Hiền. Đầu tư cho mạng lưới thư viện cấp huyện, xã. http://www.nhandan.com.vn/ vanhoa/dong-chay/item/33702002-%C3%B0au-tu-cho-mang-luoi-thu-vien-cap-huyen-xa.html. Truy cập ngày 25/5/2018.

4. Kế hoạch phối hợp Duy trì bền vững kết quả Dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại Việt Nam” do Quỹ Bill & Melinda Gates (Hoa Kỳ) tài trợ - giai đoạn 2017-2020. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Cong-nghe-thong-tin/Ke-hoach-phoi-hop-2264-KH-BTTTT-BVHTTDL-2017-du-an-Nang-cao-kha-nang-su-dung-may-tinh-368436.aspx. Truy cập ngày 25/5/2018.

5. 5 năm triển khai Dự án BMGF-VN: Niềm tin vào sự phát triển bền vững. https://baomoi.com/5-nam-trien-khai-du-an-bmgf-vn-niem-tin-vao-su-phat-trien-ben-vung/c/21119117.epi. Truy cập ngày 25/5/2018.

6. Nghị định 72/2002/NĐ-CP ngày 6/8/2002 của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Thư viện.

7. Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/ 2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020.

8. American Library Association. Extending Our Reach: Reducing Homelessness Through Library Enga- gement. - American Library Association, 2017. http:// www.ala.org/aboutala/offices/extending-our-reach-reducing-homelessness-through-library-engagement-7. Truy cập ngày 25/5/2018.

9. Asian Development Bank. Poverty in Vietnam. - Asian Development Bank, 2017. https://www.adb. org/countries/viet-nam/poverty. Truy cập ngày 25/5/ 2018.

10. Berman, S. A long struggle to force libraries to serve the poor // Street Spirit. - 2001. - January. - P. 12-13.

11. Beyond Access. Internet access and public libraries: an investment in digital inclusion and twenty first century skills. - Beyond Access, 2012. http:// beyondaccess.net/resources/internet-access-and-public-libraries-an-investment-in-digital-inclusion-and-twenty-first-century-skills/. Truy cập ngày 25/5/2018.

12. Gehner, J. Libraries, low income people and social exclusion’ // Public Library Quarterly. - 2010. - No. 29(1). - P. 39-37.

13. Gieskes, L. Why Librarians Matter to Poor People // Public Library Quarterly. - 2009. - No. 28(1). - P. 49-57.

14. Holt, GE. Fitting library services into the lives of the poor // The Botttom Line. - 2006. - No. 19(4). - P. 79-186.

15. The World Bank.Poverty. - The World Bank, 2017. http://www.worldbank.org/en/topic/poverty. Truy cập ngày 25/5/2018.

16. The World Bank data. Poverty in Vietnam. - The World Bank, 2017. http://data.worldbank.org/ topic/poverty?locations=VN. Truy cập ngày 25/5/2018.

17. Toronto Public Library. Open Data Hackathon: ToProsperity’. - Toronto Public Library, 2016. http:// www.torontopubliclibrary.ca/hackathon/. Truy cập ngày 25/5/2018.

18. http://www.gatesfoundation.org. Truy cập ngày 25/5/2018.

 _____________________

 
   

ThS. Ngô Thị Hồng Điệp

Đại học RMIT Hà Nội

Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam. - 2018. - Số 6. - Tr. 9-18, 8.


Đọc thêm cùng chuyên mục: