Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang trên con đường phát triển đi lên về mọi mặt, cố gắng đạt được sự phát triển toàn diện, cân đối giữa kinh tế và văn hoá, trong đó có hệ thống thư viện (TV). Thư viện quận, huyện (TVQH) giữ một vai trò hết sức quan trọng. Nằm trong hệ thống TV công cộng của cả nước, TVQH có chức năng quan trọng trong việc đảm bảo nâng cao dân trí, thúc đẩy khoa học công nghệ, kinh tế, xã hội ở cấp cơ sở. Sưu tập, chọn lọc, bảo quản và phục vụ cho mọi tầng lớp nhân dân thông tin/ tài liệu là những tinh hoa văn hoá, những thành tựu tiên tiến về khoa học kỹ thuật trong nước cũng như nước ngoài để làm phong phú thêm bộ mặt văn hoá, cũng như bổ sung nguồn lực phát triển của địa phương. Là trung tâm sinh hoạt văn hoá cộng đồng, luân chuyển tài liệu cung ứng thông tin cho mọi thành phần người dùng tin trên địa phương.
Nhìn lại những năm qua, công tác tổ chức và hoạt động của mạng lưới TVQH trên cả nước đã có sự thay đổi. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hệ thống TVQH vẫn tồn tại nhiều vấn đề bất cập chưa tương xứng với vai trò, vị thế của TV. Hơn thế, đã có những dấu hiệu khủng hoảng xuống cấp do cơ chế chuyển đổi, một số TVQH hoạt động cầm chừng. Từ thực tế trên, làm thế nào để hoàn thiện về mặt tổ chức và phát triển mạng lưới TVQH là bài toán đang đặt ra cho các nhà quản lý, các nhà chuyên môn cần có lời giải.
1. Tầm quan trọng của thư viện quận, huyện
Hệ thống TVQH Việt Nam là những thành trì gần dân nhất của văn hoá đọc, là “cánh tay nối dài” của TV tỉnh, thành, là lực lượng trực tiếp phát triển văn hoá đọc trong cộng đồng. Hệ thống TVQH của Việt Nam là những TV phục vụ cho quảng đại quần chúng nhân dân lao động không phân biệt giới tính, nghề nghiệp, lứa tuổi, trình độ chuyên môn, trình độ văn hoá, là những TV thực hiện việc đưa tri thức, thông tin đến với nhân dân bằng mọi hình thức, mọi phương tiện, thực hiện chức năng văn hoá, giáo dục, giải trí.
Đối tượng phục vụ của mạng lưới TVQH ở Việt Nam bao gồm mọi tầng lớp trong nhân dân. Họ làm những nghề nghiệp rất khác nhau, trình độ chuyên môn, văn hoá cũng như nhu cầu, sở thích, sách, báo, tài liệu cũng rất khác nhau. Vì vậy, kho sách, báo của TVQH mang tính chất tổng hợp và phổ cập, bao gồm tất cả các lĩnh vực tri thức.
Hệ thống TVQH là công cụ đắc lực trong việc tuyên truyền phổ biến tri thức về di sản văn hoá dân tộc, văn hoá thế giới nói chung và những thành tựu khoa học kỹ thuật áp dụng vào cuộc sống, những tác phẩm văn hoá, nghệ thuật trong và ngoài nước nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí cho người lao động, mở mang tầm hiểu biết, sử dụng thời gian nhàn rỗi của nhân dân một cách có ích. Hệ thống TVQH còn là công cụ có hiệu quả giúp cho người dân tự học có hệ thống, hỗ trợ việc học tập trong nhà trường, tự học ở các cấp độ khác nhau, tạo điều kiện phát huy tính sáng tạo cá nhân của người dùng tin. Không chỉ vậy, TV còn góp phần to lớn trong việc xoá mù chữ, xoá đói thông tin, xoá mù công nghệ thông tin (CNTT), góp phần giáo dục thế hệ trẻ, hình thành thói quen đọc sách, phát triển trí sáng tạo, óc thẩm mỹ của họ.
2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống thư viện quận, huyện ở nước ta
2.1. Thực trạng tổ chức
Một TV muốn hoạt động có hiệu quả cần phải có một cơ cấu tổ chức hợp lý, có cấu trúc phù hợp với mục tiêu và hoạt động. Tuy nhiên, hệ thống TVQH thuộc hệ thống TV công cộng chịu sự lãnh đạo, quản lý không thống nhất.
Các văn bản pháp quy Nhà nước về TV đã có một số bất cập cho TVQH như:
Quy chế mẫu về tổ chức hoạt động TVQH, ở mục 2, điều 1: Vị trí chức năng nêu: “Tuỳ theo quy mô tổ chức, hoạt động và điều kiện cụ thể của từng địa phương, TV cấp huyện có thể trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện hoặc Trung tâm Văn hoá - Thông tin”. Phải chăng do văn bản ghi “tuỳ” và “có thể” (không khẳng định) mà cho đến nay chỉ có một số TV huyện trực thuộc Uỷ ban nhân dân quận, huyện quản lý. Hầu hết phần lớn các tỉnh, thành trên cả nước, việc tổ chức và hoạt động của TVQH đều gặp khó khăn và rất hạn chế trong công tác lãnh đạo triển khai thực hiện xây dựng cơ chế TVQH trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp quận, huyện.
Trong quy chế về tổ chức và hoạt động của tổ chức sự nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hoá, thể thao và du lịch, quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương số 01/2010/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch ngày 26/02/2010, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2010, hoàn toàn không có TV? Như vậy có sự mâu thuẫn của Quy chế tổ chức và hoạt động (Quy chế mẫu) của TVQH đó là: một bên (chủ quản là Trung tâm Văn hoá) gần như không thừa nhận TV cấp quận, huyện là một đơn vị trực thuộc, có chăng là sự thừa nhận TV như là một bộ phận nhỏ trong một tổ chuyên môn ở Trung tâm Văn hoá. Thực tiễn nhiều năm qua đã minh chứng là việc đầu tư phát triển TVQH còn gặp nhiều khó khăn hạn chế về kinh phí hoạt động, sự phát triển TV chưa đủ tầm và tương xứng với yêu cầu phát triển xã hội, nhất là việc đáp ứng phục vụ yêu cầu công nghiệp hoá đất nước. Và một bên Quy chế mẫu TVQH khẳng định rằng: TV cấp huyện có thể trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện hoặc Trung tâm Văn hoá. Với tình hình trên, sự lãnh đạo đầu tư cho tổ chức và hoạt động TVQH không đồng đều và tương xứng yêu cầu phát triển văn hoá xã hội hiện nay. Từ thực tế nêu trên, có thể thấy rằng, những hạn chế trong việc tổ chức của hệ thống TVQH ở nước ta trong những năm qua còn nhiều bất cập hạn chế và yếu kém.
Về thực thi Pháp lệnh Thư viện, mục 5, điều 24, chương V: Quản lý Nhà nước về TV quy định việc Tổ chức đăng ký hoạt động TV. Phần lớn không thực hiện được do sự bất cập là: Trung tâm Văn hoá huyện là đơn vị sự nghiệp có tư cách pháp nhân, trong khi TVQH hiện nay chỉ là một bộ phận trong nhiều bộ phận khác thuộc tổ chức hoạt động chung của Trung tâm, do vậy, sự đăng ký theo quy định ấy có “thừa” và “cần thiết” hay không? Vấn đề này cũng cần được xem lại – Quy chế tổ chức hoạt động của Phòng Văn hoá - Thông tin huyện có quy định quản lý hành chính Nhà nước đối với TVQH trực thuộc Trung tâm Văn hoá hay không? Và cũng chưa tìm thấy văn bản hướng dẫn nào cho biết đăng ký hoạt động TVQH với mục đích gì?
Cơ sở vật chất và hạ tầng công nghệ của thư viện quận, huyện
Theo Nghị định số 72/2002/NĐ–CP, ngày 6/8/2002 của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Thư viện nội dung như sau: “Ưu tiên giao đất và tạo điều kiện thuận lợi cho các thư viện được xây dựng ở nơi Trung tâm Văn hoá, hành chính, thuận tiện về giao thông, đáp ứng yêu cầu về cảnh quan, môi trường văn hoá”. Nhưng theo số liệu thống kê của Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch), cả nước hiện nay có 597/697 TV cấp quận, huyện. Như vậy, còn 100 huyện chưa có TV. 216 TVQH chưa có trụ sở riêng, phải ở chung với các cơ quan, tổ chức khác, chỉ có khoảng 130 TVQH trong cả nước có trụ sở tương đối khang trang, đạt tiêu chuẩn trụ sở TVQH.
Có thể nói, cơ sở vật chất của mạng lưới TVQH hiện nay chưa đáp ứng đủ các điều kiện cho một TV hoạt động tốt nhất. Trong thời gian tới, các TVQH cần phải được đầu tư để ứng dụng CNTT, từng bước hiện đại hoá, tự động hoá các hoạt động của TV.
Sự không ổn định về trụ sở còn làm ảnh hưởng đến các hoạt động của TV. Một TV muốn hoạt động tốt và phát triển phải có trụ sở độc lập, ổn định lâu dài để làm nơi làm việc và được trang bị các phương tiện đảm bảo cho người làm thư viện (NLTV) làm việc và người dùng tin đến TV.
Tính đến nay, chưa có TV nào được đầu tư để xây dựng một trụ sở riêng bằng nguồn kinh phí theo Nghị định số 72/2002/NĐ–CP ngày 6/8/2002 của Thủ tướng Chính phủ.
2.2. Hoạt động của mạng lưới thư viện quận, huyện
Kinh phí hoạt động
Hầu như hệ thống TVQH đều trong tình trạng được cấp kinh phí quá ít để hoạt động. Sự quan tâm đến TV của các chính quyền địa phương rất hạn chế. Điều này diễn ra tương đối phổ biến, không chỉ ở khu vực các tỉnh còn khó khăn về kinh tế. Nguyên nhân chủ yếu do nhận thức chưa đúng về vai trò, vị trí của TV. Với lượng kinh phí ít ỏi, trong khi giá thành sách, báo thì cao, việc bổ sung sách mới quá ít là điều tất nhiên. Có những TV hàng năm chỉ xin được kinh phí cho 01 hội thi thiếu nhi tuyên truyền giới thiệu sách ở cấp huyện và tham dự tại cấp thành phố, hoặc là mua sắm văn phòng phẩm để sử dụng thường xuyên, không có kinh phí cho các hoạt động khác để mua sắm trang thiết bị.
Sự phối hợp hoạt động và chia sẻ nguồn lực giữa các thư viện quận, huyện
Trong thời điểm hiện tại, sự phối hợp giữa các TVQH là biện pháp hữu hiệu giúp tăng cường nguồn lực thông tin để các TV hoàn thành nhiệm vụ của mình. Nếu không có sự phối kết hợp lẫn nhau, các TVQH sẽ dễ bị lạc hậu do không cập nhật được kịp thời những yêu cầu mới về sự phát triển của xã hội, cũng như không có sức ép về vấn đề hoàn thiện cơ cấu tổ chức, hoạt động. Mối quan hệ và gắn bó mật thiết giữa các đơn vị khiến bản thân mỗi đơn vị phải luôn tự đổi mới để có thể bắt kịp với sự phát triển chung của cả hệ thống. Và đó cũng chính là cái đích mà mỗi TV luôn mong muốn đạt tới. Tuy nhiên, cho đến nay việc phối hợp vẫn chưa thực hiện được bởi liên quan đến điều kiện ở mỗi cơ quan. Việc tham gia phối hợp, chia sẻ nguồn lực các TVQH chưa suy nghĩ một cách nghiêm túc về việc chia sẻ nguồn lực trong nhiều lĩnh vực.
2.3. Nhận xét
Về hiệu quả hoạt động
Hệ thống TVQH ở nước ta được trải rộng khắp cả nước. Tuy mức độ hoạt động có khác nhau, nhưng nói chung các TV vẫn đang tồn tại và phát huy hiệu quả. Các chương trình quốc gia hỗ trợ TV về sách hạt nhân, phương thức luân chuyển sách, đầu tư xây dựng trụ sở TV, hỗ trợ trang thiết bị, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho NLTV hàng năm có nhiều tác dụng tốt. Đã xuất hiện một số TV huyện tiêu biểu xuất sắc về từng mặt.
Tuy nhiên, hệ thống TVQH hiện nay còn yếu kém, chưa được quan tâm đúng với vị trí vốn có của nó. Tốc độ phát triển quá chậm. Hệ thống TV công cộng ở quận, huyện - những thành trì gần dân nhất của văn hoá đọc, lại đang bị cũ kỹ, lạc hậu, NLTV thiếu về lượng, hụt về chất nên không có gì lạ khi mạng lưới TVQH hoạt động ngày càng yếu.
Về tổ chức
Nhìn vào cơ cấu tổ chức và đội ngũ NLTV, chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:
Đội ngũ NLTV còn thiếu, yếu về trình độ chuyên môn và sự sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm. Về cơ bản chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý và vận hành TV trong điều kiện mới, đặc biệt là việc ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào TV.
Sự nhận thức, quan tâm đầu tư, chỉ đạo của các cấp, ngành liên quan cho công tác TV còn hạn chế đã dẫn tới tổ chức và hoạt động TV còn thiếu và yếu.
Phương thức phục vụ nhìn chung chưa ổn định. Công tác ứng dụng tin học còn chậm triển khai. Các sản phẩm và dịch vụ thông tin còn hạn chế về nội dung và hình thức, chưa thực sự thuyết phục và lôi cuốn bạn đọc đến với TV.
Sự phân cấp quản lý đối với TVQH chưa hợp lý. Hiện nay, TV là một bộ phận trực thuộc Trung tâm Văn hoá cũng là một nguyên nhân quan trọng làm hạn chế rất nhiều đến hoạt động TV. Với cách thức tổ chức như hiện nay thì mạng lưới TV hoạt động không thể có kết quả tốt như mong muốn, bởi các TV chưa tự quyết được các hoạt động của mình.
Với thực trạng tổ chức TV như hiện nay, TVQH ở nước ta không thể thực hiện có hiệu quả các hoạt động TV theo đúng tinh thần của Pháp lệnh Thư viện và các văn bản pháp luật khác đối với TV; Các TV thiếu chủ động, tích cực phát huy vai trò là trung tâm chuyển giao tri thức cho người dân; Một số nơi, cán bộ lãnh đạo cấp uỷ, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò của TV đến việc nâng cao dân trí, phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật cho nhân dân. Các Trung tâm Văn hoá/ Phòng văn hoá chưa tích cực tạo điều kiện cho cán bộ đi học để nâng cao trình độ. Số lượng cán bộ thiếu, diện tích TV chật hẹp, nên không thể tổ chức các phòng, ban theo quy chế mẫu. Các lớp bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ không được mở thường xuyên. Thiếu chính sách thu hút người có trình độ năng lực, cơ chế tuyển dụng cán bộ công chức nhà nước chưa khoa học, tình trạng nể nang, sử dụng không đúng người, đúng việc diễn ra ở nhiều TV.
3. Các giải pháp hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động hệ thống thư viện quận, huyện của nước ta
3.1. Nhóm giải pháp về tổ chức
Đổi mới cơ chế quản lý thư viện quận, huyện
- Củng cố và kiện toàn tổ chức sự nghiệp TV Việt Nam theo tinh thần của Pháp lệnh Thư viện, Nghị định số 72/2002/NĐ-CP ngày 6/8/2002 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành Pháp lệnh Thư viện và các văn bản hướng dẫn kèm theo.
- Xây dựng Luật Thư viện, đồng thời sửa đổi, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế quản lý và các chính sách đồng bộ, thống nhất liên quan đến hoạt động TVQH.
Kiện toàn bộ máy tổ chức mạng lưới thư viện quận, huyện
Về cơ quan chủ quản: Tách TV khỏi Trung tâm Văn hoá thành cơ quan độc lập cả về vị trí địa lý và vị trí trong tổ chức. Nhằm phát huy tính tự chủ, bên cạnh khả năng tự tạo thêm kinh phí cho hoạt động thông qua các nguồn thu từ các sản phẩm và dịch vụ thông tin, còn có thể được đầu tư ngân sách hoạt động cao hơn từ Uỷ ban nhân dân quận, huyện. Chủ động hơn trong tuyển chọn, tự chịu trách nhiệm thay thế nguồn nhân lực phù hợp trên cơ sở đáp ứng được những yêu cầu đặt ra, mà không phải phụ thuộc vào việc Trung tâm Văn hoá chọn người như hiện nay.
TVQH cần chịu sự quản lý, chỉ đạo chung của Uỷ ban nhân dân cấp huyện và chịu sự quản lý nhà nước về công tác TV của Phòng Văn hoá – Thông tin, chịu sự hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ của TV tỉnh, thành.
Nâng cao trình độ nhận thức của đội ngũ cán bộ quản lý thư viện
Cán bộ quản lý nhà nước cần nhận thức rõ các vấn đề sau:
- Vai trò, tác dụng của sách, báo và TV trong việc nâng cao dân trí, góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội của đất nước.
- Chỉ đạo các TV bám sát các nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn, từng thời kỳ để giải quyết các nhiệm vụ. Giúp các TV xây dựng kế hoạch phát triển TV cụ thể trong từng giai đoạn, từng thời kỳ trên cơ sở có sự khảo sát, tính toán thật sự cẩn thận.
- Có kế hoạch và triển khai từng bước hiện thực hoá từ tỉnh tới cơ sở, quy hoạch phát triển mạng lưới TV định hướng đến năm 2020 mà Chính phủ cho phép ban hành vừa qua. Đẩy nhanh ứng dụng CNTT trong hoạt động TV, tạo bước chuyển biến quan trọng về phương thức hoạt động TV.
- Cần tổ chức các hoạt động nhằm tuyên truyền, giới thiệu, đồng thời khẳng định vai trò, tầm quan trọng của TV trong công tác bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá dân tộc theo quan điểm của Đảng ta là “đầu tư cho TV là đầu tư cho giáo dục, cho phát triển nhân lực Việt Nam”.
Tăng cường, nâng cao trình độ đội ngũ người làm thư viện và xây dựng đội ngũ cộng tác viên
- Về chuyên môn: Cần có trình độ về chuyên ngành TV, ngoại ngữ và tin học trình độ B trở lên.
- NLTV phải có ý thức về tinh thần học tập, củng cố kiến thức của bản thân.
- Phải có kiến thức rộng về mọi lĩnh vực, đồng thời phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất định.
- NLTV phải là nhà tổng hợp nội dung các loại hình tài liệu khác nhau để giới thiệu đến người dùng tin.
- NLTV rất cần có sự thay đổi và hoàn thiện các kỹ năng nghề nghiệp trên cơ sở vận dụng các thành tựu của CNTT.
Ngoài các yếu tố trên thì vai trò của cơ quan chuyên môn cấp trên trực tiếp và cơ quan chủ quản của TV cũng cần xác định:
- TV tỉnh, thành cần đẩy mạnh công tác bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn cho đội ngũ NLTV quận, huyện bằng các hình thức khác nhau. Kết hợp lý thuyết với thực hành, lý luận kết hợp với thực tiễn.
- Trong những năm tiếp theo, TV tỉnh, thành cần xây dựng kế hoạch và tổ chức tập huấn, hoặc mở lớp bồi dưỡng về CNTT cho NLTV quận, huyện, đảm bảo 100% NLTV biết vận hành máy tính, xử lý nội dung thông tin bằng phần mềm quản trị TV.
- Phòng tổ chức cán bộ, lãnh đạo đơn vị chủ quản bố trí NLTV phù hợp với khả năng, chuyên môn được đào tạo, tránh tình trạng bố trí cán bộ chồng chéo, tuỳ tiện không đúng người, đúng việc.
- TV là nơi cung cấp nguồn thông tin chính cho người dùng tin, NLTV là người tạo ra sản phẩm và dịch vụ thông tin. Việc này không phải do chính NLTV trong TV biên soạn mà hầu hết đều phải căn cứ theo yêu cầu của người dùng tin. Vì vậy, người dùng tin là lực lượng nhân sự đắc lực giúp TV có được những ấn bản có giá trị cao. Trong quá trình phát triển của mình, TV cần phải nắm bắt được cơ hội và tăng cường thu hút đội ngũ này làm cộng tác viên cho công tác TV. Như thế hoạt động TV sẽ ngày càng được đảm bảo và hiệu quả hơn.
Xây dựng mạng lưới thư viện cơ sở
TVQH cần phối hợp với TV tỉnh, thành, với Uỷ ban nhân dân các phường, xã rà soát lại toàn bộ xã còn lại chưa có TV để tiến hành các thủ tục thành lập TV trong thời gian sớm nhất.
Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa TVQH với các TV cơ sở, TV trường phổ thông, tủ sách pháp luật, điểm bưu điện văn hoá xã. Hiện nay, tủ sách pháp luật và điểm bưu điện văn hoá xã gần như hoạt động độc lập và đang bộc lộ nhiều hạn chế. Đặc biệt khi các TV tư nhân có phục vụ cộng đồng phát triển, các TVQH cần có sự phối hợp để tạo thêm nguồn lực cho hoạt động.
3.2. Nhóm giải pháp về hoạt động
Phối hợp hoạt động và chia sẻ nguồn lực giữa các thư viện quận, huyện
Hình thức chia sẻ phổ biến nhất là việc phối hợp nguồn dữ liệu thư mục giữa các TVQH. Mỗi cơ quan thư viện – thông tin đều có một số lượng biểu ghi nhất định về một lĩnh vực nào đó, sự hợp nhất giữa chúng sẽ tạo nên một ngân hàng dữ liệu phong phú và đa dạng. Người dùng tin sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc lựa chọn tài liệu.
Các TVQH cần phải tính đến việc chia sẻ người dùng tin. Có nghĩa là không còn khái niệm người dùng tin của một TVQH cụ thể nào đó, mà sẽ xuất hiện khái niệm người dùng tin của các quận, huyện nói chung. Mỗi TVQH có thể vẫn phải chịu sự quản lý về mặt hành chính, nhưng diện phục vụ của nó được mở rộng. Để đạt được điều này, các TVQH cần có sự phối hợp hết sức chặt chẽ, cũng như cần có những cam kết mang tính pháp lý cao. Hiện nay, trước tình hình kinh phí khó khăn, nguồn tin của mỗi TV không thể thoả mãn được nhu cầu của người dùng tin. Bên cạnh đó, CNTT và viễn thông phát triển rất mạnh. Đây cũng chính là điều kiện lý tưởng để mạng lưới TVQH xây dựng mạng lưới liên kết.
Tăng cường phát triển nguồn lực thông tin
- Nhanh chóng đẩy nhanh tốc độ phát triển vốn tài liệu. TV tỉnh tiếp tục tham mưu với Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch và Sở Tài chính duy trì, tăng kinh phí bổ sung của chương trình mục tiêu hàng năm cho kho sách, đảm bảo cho TVQH có đủ sách phục vụ tại chỗ và đưa sách xuống phục vụ quần chúng ở cơ sở.
- Đảm bảo một tỷ lệ cơ cấu vốn hợp lý giữa các môn loại tri thức, giữa các nhóm nhu cầu đọc, giữa các loại sách phổ cập và nghiên cứu.
- Chú trọng thu thập, bổ sung tài liệu địa chí, những tài liệu của địa phương và nói về địa phương.
Kiện toàn công tác xử lý tài liệu
- Để nâng cao chất lượng xử lý tài liệu thì NLTV phải trang bị kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ và ý thức trách nhiệm nghề nghiệp đối với công việc. Tiếp đó là hoàn thiện bộ máy tra cứu thủ công, xây dựng thêm mục lục chủ đề trong hệ thống mục lục truyền thống. Bổ sung các phích tiêu đề, phích chỉ chỗ, kiểm tra, thay mới thường xuyên, định kỳ các phích bị rách, cũ, nát.
- Sản phẩm và dịch vụ thông tin chính là kết quả của xử lý hình thức và nội dung tài liệu. Để khẳng định vai trò cũng như vị trí xã hội của mình, đồng thời để tăng số người sử dụng, mở rộng độ bao quát và khả năng tiếp cận nhằm đáp ứng yêu cầu của mọi nhóm người dùng tin, mạng lưới TVQH Việt Nam cần đa dạng hoá, hoàn thiện và nâng cao chất lượng xử lý tài liệu để đưa ra các sản phẩm TV phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức, giúp người dùng tin tìm kiếm thông tin chính xác, nhanh chóng.
- Đối với các TV đã và sẽ ứng dụng CNTT cần thường xuyên kiểm tra cơ sở dữ liệu, tránh trường hợp bị xoá, sửa, máy bị nhiễm virus, có hướng dẫn sử dụng cho người dùng tin một cách chi tiết đối với cơ sở dữ liệu điện tử này.
Đổi mới phương thức phục vụ người dùng tin
- Giảm bớt thủ tục hành chính, làm thẻ.
- Ngoài các hoạt động có thu, TV nên thu hút người dùng tin bằng việc làm thẻ miễn phí trong một số ngày trong năm.
- Tổ chức kho mở giúp người dùng tin tiếp xúc trực tiếp với tài liệu, để lựa chọn cho mình những tài liệu thích hợp đáp ứng được yêu cầu dùng tin của họ một cách chính xác nhất, phát huy được tính độc lập, tự chủ của người dùng tin.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền để TV có thể giới thiệu được tất cả các nguồn tài liệu phong phú, đa dạng hiện có trong TV, giúp người dùng tin dễ dàng thu nhận thông tin và tìm chọn những tài liệu phù hợp với yêu cầu của họ.
- Phát động các phong trào và tổ chức những phương thức thu hút nhiều người tích cực tham gia vào hoạt động đọc phù hợp với từng đối tượng và từng thành phần dân cư.
Chú trọng công tác lưu trữ và bảo quản
- Xác định được mục tiêu của công tác bảo quản. Điều tra cơ bản vốn tài liệu để có được số liệu chi tiết về hiện trạng vốn tài liệu, từ đó xây dựng kế hoạch bảo quản.
- Trong công tác bảo quản tài liệu, vấn đề kinh phí là rất quan trọng. Ngoài khoản kinh phí thường xuyên, có thể tăng thêm kinh phí từ các chương trình nghiên cứu hoặc tài trợ của các tổ chức trong và ngoài nước.
- Cần đặt công tác bảo quản - phòng ngừa là một công tác trọng tâm. Trong đó, cần xây dựng và phổ biến những nội dung của công tác này đến NLTV, cũng như người dùng tin.
- Trang bị các phương tiện sử dụng tài liệu thích hợp như gối sách, để thuận lợi hơn cho việc đọc các tài liệu khổ lớn, các tài liệu đã bị hư hỏng.
- Thiết kế xây dựng TV đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật và yêu cầu của công tác bảo quản.
- Thực hiện kế hoạch chuyển tài liệu bằng giấy sang vật mang tin khác. Muốn vậy phải có cơ sở dữ liệu toàn văn, ngoài các cơ sở dữ liệu thư mục.
- Phòng, chống sự huỷ hoại tài liệu của các loại côn trùng.
- Đảm bảo vệ sinh kho tài liệu cũng như môi trường xung quanh.
- Ban hành các quy chế sử dụng, bảo quản các loại tài liệu, đặc biệt là các tài liệu quý, hiếm.
Đa dạng hoá các loại hình sản phẩm và dịch vụ thông tin
- Để đa dạng hoá, nâng cao chất lượng các hoạt động tuyên truyền, giới thiệu sách, báo và vận động cán bộ, nhân dân đến sử dụng sách, báo đạt kết quả tốt, các TVQH cần đặc biệt quan tâm đến việc tạo ra các sản phẩm thông tin phong phú, phù hợp với điều kiện cụ thể của TV, để giới thiệu với các thành phần, đối tượng người dùng tin, giúp họ biết được nguồn tài liệu, sách, báo của TV nhằm kích thích nhu cầu đọc, nhu cầu mượn sách tại TV.
- TV cần hoàn thiện các sản phẩm và dịch vụ thông tin hiện có như trang thông tin điện tử, cơ sở dữ liệu thư mục sách, tra cứu tài liệu tự động. Bên cạnh đó, tận dụng những tiện ích mà CNTT mang lại để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ thông tin mới, đáp ứng yêu cầu của đại đa số người dùng tin.
- Các TVQH cần xây dựng kế hoạch marketing cụ thể để quảng bá hình ảnh TV, giúp người dùng tin hiểu và đón nhận các sản phẩm và dịch vụ thông tin của TV.
- Bên cạnh việc hoàn thiện các sản phẩm và dịch vụ thông tin hiện có, TV cần mở rộng cung cấp thêm các sản phẩm và dịch vụ thông tin mới phù hợp với nhu cầu người dùng tin và khả năng của TV.
Để giải pháp đa dạng hoá các sản phẩm và dịch vụ thông tin đạt được hiệu quả, cần thực hiện các biện pháp cụ thể sau:
- Đào tạo người dùng tin.
- Phát triển nguồn lực thông tin cả ở dạng truyền thống và điện tử phù hợp với đặc thù phát triển của từng địa phương, đây là điều kiện cơ bản để TV tạo ra được các sản phẩm và dịch vụ thông tin tốt hơn.
- Đánh giá chất lượng của các sản phẩm và dịch vụ thông tin, đặc biệt là các sản phẩm và dịch vụ thông tin dựa trên khảo sát mức độ hài lòng của người dùng tin.
- Tổ chức giới thiệu các sản phẩm và dịch vụ thông tin của TV đến cộng đồng người dùng tin, bảo đảm người dùng tin biết được khả năng đáp ứng nhu cầu của TV đối với người dùng tin.
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin
Việc ứng dụng CNTT vào hoạt động TVQH sẽ là một nhu cầu cấp bách. Trong vài năm trước mắt, các TV cần được trang bị máy tính nối mạng nội bộ (mạng LAN), nối mạng Internet. Mục tiêu chính là để tạo lập cơ sở dữ liệu vốn tài liệu TV, tra cứu opac các tài liệu của TV trong nước đối với những tài liệu mà TV mình không có, để từ đó có căn cứ hướng dẫn, giới thiệu người dùng tin đến TV có tài liệu mà người dùng tin cần.
Xu hướng hội nhập và chia sẻ thông tin đang trở thành xu hướng tất yếu, mỗi TVQH cần có kế hoạch dành kinh phí bổ sung kịp thời, cử NLTV tham dự lớp học về CNTT.
Trước mắt, các TV chưa có phần mềm bản quyền, mà có đủ điều kiện về cơ sở vật chất vẫn có thể sử dụng phần mềm thông dụng từ thập kỷ trước là CDS/ ISIS. Đây là phần mềm tuy hạn chế song lại dễ thích ứng với bất kỳ máy tính ở cấu hình thấp hay cao, hoạt động độc lập trên một máy, chế độ sao lưu, phục hồi dữ liệu dễ dàng, tra tìm tài liệu nhanh, dễ sử dụng.
3.3 Các giải pháp khác
Tăng cường đầu tư kinh phí hoạt động
Tài lực là một trong bốn yếu tố cấu thành TV. Vì vậy, hiệu quả hoạt động TV một phần phụ thuộc vào kinh phí. Để cải thiện hình ảnh TV, tăng hiệu quả hoạt động TV theo hướng hiện đại hoá cần tăng cường đầu tư kinh phí hoạt động cho TV và tăng thêm các nguồn kinh phí khác ngoài ngân sách.
Chú trọng hướng dẫn người dùng tin
Thực tế hiện nay chưa có TV nào có những chương trình hướng dẫn người dùng tin sử dụng TV, mà chỉ dừng lại ở mức độ hướng dẫn trực tiếp khi người dùng tin có nhu cầu; hoặc các TV có phần thông báo hướng dẫn tìm kiếm tài liệu TV trên máy tính. Điều này chưa thể đảm bảo đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người dùng tin. Vì vậy, các TVQH ở Việt Nam cần phải:
- Cung cấp những chương trình hướng dẫn phù hợp với những nhóm đối tượng người dùng tin khác nhau, nhằm giúp họ hiểu và sử dụng nguồn lực thông tin của TV, cũng như các nguồn lực thông tin điện tử khác.
- Xây dựng các chương trình hướng dẫn nhằm đảm bảo người dùng tin khai thác tối đa nguồn tài nguyên CNTT của TV.
- Sử dụng các phương thức và hình thức hướng dẫn khác nhau, phù hợp với các nhóm đối tượng người dùng tin. TV có thể sử dụng đội ngũ cộng tác viên từ cộng đồng người dùng tin để hỗ trợ cho công việc đào tạo này.
- Tổ chức các lớp hướng dẫn khai thác nguồn lực thông tin của TV dành cho những ai quan tâm, đặc biệt là đối với những người lên TV lần đầu tiên còn rất nhiều bỡ ngỡ.
- Có bảng hướng dẫn, chỉ dẫn tra cứu mục lục cụ thể để giúp người dùng tin có thể tự học cách tra cứu trong trường hợp không tham gia được lớp học hướng dẫn.
Tăng cường cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ
Cơ sở vật chất là vấn đề đầu tiên mà các TV cần tính đến, muốn TV hoạt động tốt, cần phải có trụ sở riêng biệt với những trang thiết bị chuyên dùng khang trang hiện đại.
Số lượng vốn tài liệu tối thiểu ban đầu của TVQH khi mới thành lập được quy định tại Thông tư số 56/2003/TT-BVHTT ngày 16/9/2003 của Bộ Văn hoá - Thông tin hướng dẫn chi tiết về điều kiện thành lập TV và thủ tục đăng ký hoạt động TV.
Đối với trụ sở TVQH cần phải dành quỹ đất xây dựng TV độc lập theo đúng yêu cầu thiết kế chuyên biệt cho TV, nằm trong khu vực quy hoạch đất dành cho trung tâm văn hoá, thể thao, vui chơi, giải trí, gần khu dân cư, trường học, cơ quan của các huyện, thành phố.
Cần tăng cường các trang thiết bị điện tử cho việc ứng dụng CNTT trong hoạt động TV.
Vận động các cấp các ngành, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ cung cấp máy tính và hỗ trợ phần mềm TV, tiến tới xây dựng mạng lưới TV điện tử cấp huyện.
Xã hội hoá hoạt động thư viện
Xã hội hoá hoạt động TV là một phương cách tất yếu để tăng cường nguồn lực, phát triển hoạt động của TV, đưa sách, báo đến với những người dân thiếu thông tin ở mọi địa bàn.
Trong giai đoạn tới, xã hội hoá hoạt động TV cần được tiến hành theo các nội dung chủ yếu sau:
- Tổ chức, vận động thu hút sự tham gia rộng rãi của toàn xã hội, của các tầng lớp nhân dân vào sự nghiệp TV.
- Huy động các nguồn vốn tạo cơ sở vật chất và kinh phí cho hoạt động TV.
- Xã hội hoá các mô hình TV cơ sở. Tăng cường hướng dẫn nhân dân tham gia vào phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” với phương châm “Góp một cuốn sách để đọc nhiều cuốn sách”.
- Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước tặng tài liệu, tiền, tài sản, đóng góp công sức cho việc xây dựng và phát triển TV; tham gia các hoạt động do TV tổ chức.
- Tạo điều kiện cho người dân ở mọi trình độ, lứa tuổi, mọi dân tộc, ở mọi nơi có điều kiện tiếp xúc với sách, báo của TV thông qua hệ thống TV từ huyện đến cơ sở.
- Khuyến khích phát triển các TV tư nhân có phục vụ cộng đồng, góp phần tích cực vào sự phát triển của mạng lưới TVQH ở Việt Nam.
Xây dựng phương án phát triển mạng lưới thư viện quận, huyện ở vùng sâu, vùng xa
Mạng lưới TVQH đóng vai trò chủ yếu trong việc giải quyết hai vấn đề lớn của thời đại số hoá là giáo dục và truy nhập mạng. Tuy nhiên, hiện nay, các TVQH ở nông thôn cũng đang ở trong tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”, đó là làm thế nào để TV cung cấp được nhiều thông tin hơn cho bạn đọc trong tình hình ngân sách eo hẹp. Để giải quyết vấn đề này, mạng lưới TVQH ở Việt Nam nên xây dựng các TV cụm. Phát huy cao nhất khả năng hợp tác chia sẻ giữa các TVQH.
Tăng cường giới thiệu hình ảnh thư viện đến cộng đồng
- Các TV cần gắn bảng hiệu ở nơi người dùng tin dễ nhìn thấy.
- Mỗi khi tổ chức các chương trình, sự kiện, TV có thể làm các pano, áp phích trước cổng ra vào để thông báo đến cộng đồng.
- Các sản phẩm và dịch vụ thông tin của TV nhất thiết phải được giới thiệu rộng rãi nhằm thu hút người dùng tin đến sử dụng TV.
- Các TV cần biết sử dụng sức mạnh của công nghệ. Vì thế, yêu cầu đặt ra là TV cần đầu tư cho các trang thông tin điện tử cả về mặt nội dung lẫn hình thức, bảo đảm cung cấp thông tin hữu ích, phong phú và cập nhật.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định mục tiêu xây dựng nông thôn mới là: “Xây dựng nông thôn mới ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại”. Chúng ta đang bước vào kỷ nguyên của khoa học công nghệ, kỷ nguyên thông tin phát triển như vũ bão, nền kinh tế tri thức đóng vai trò chủ đạo. Khối lượng tài liệu, băng, đĩa phát hành tăng theo cấp số nhân. Về lĩnh vực văn hoá nói chung và lĩnh vực TV nói riêng, phải làm thế nào để tiếp thu được những tinh hoa văn hoá từ khắp nơi trên thế giới, nhưng vẫn giữ gìn được bản sắc văn hoá dân tộc “hoà nhập nhưng không hoà tan”, tiếp thu một cách có chọn lọc, phát triển, nâng cao đời sống tinh thần cho toàn dân. Đó là vấn đề đặt ra cho toàn xã hội nói chung, cho ngành Văn hoá nói riêng và cũng chính vì mục tiêu đó mà lãnh đạo cũng như cán bộ, viên chức ngành Văn hoá đang nỗ lực hết mình để làm việc vì mục tiêu chung đó.
Tiếp tục phát triển các lĩnh vực văn hoá gắn kết chặt chẽ, đồng bộ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, nếp sống văn hoá, văn minh trong các tầng lớp nhân dân, phù hợp yêu cầu phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, không ngừng nâng cao chất lượng đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân. Hoàn chỉnh nền tảng cơ sở vật chất, xây dựng đồng bộ và nâng cao hiệu quả hoạt động hệ thống thiết chế văn hoá từ tỉnh đến cơ sở. Hình thành nền tảng cơ sở vật chất hiện đại và cơ chế quản lý thích ứng với xu thế phát triển văn hoá của đô thị công nghiệp.
Trong lĩnh vực hoạt động của mình, các TVQH ở Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định, phần nào đáp ứng được nhu cầu thông tin của người dùng tin, giới thiệu được một số hoạt động của TV trong quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, mặc dù được sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng, Nhà nước, hoạt động của TV công cộng nói chung vẫn còn gặp nhiều khó khăn về tổ chức, trụ sở, trang thiết bị, vốn tài liệu, nguồn nhân lực… thực sự chưa phát triển so với xu thế thời đại.
Với những kết quả đạt được, tác giả mong rằng những đề xuất thiết thực và tâm huyết trên đây sẽ nhanh chóng được áp dụng vào thực tiễn hoạt động của mạng lưới TVQH ở Việt Nam, để nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu tin cho nhân dân, góp phần đáng kể vào việc xây dựng nền Văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Lê Văn Viết. Mô hình tổ chức và hoạt động của thư viện tỉnh, huyện và cơ sở ở Việt Nam : Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ. - H., 2007.
2. Trần Văn Hà. Tổ chức và hoạt động thư viện cấp huyện trên địa bàn thủ đô Hà Nội. - H., 2010.
3. Trần Văn Hồng. Tổ chức và hoạt động của mạng lưới thư viện quận, huyện ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh : thực trạng và giải pháp. - H., 2013.
4. Vụ Thư viện. Kỷ yếu hội nghị tổng kết 3 năm hoạt động của hệ thống thư viện công cộng toàn quốc 2010-2015.
_________________
ThS. Trần Văn Hồng
Trung tâm Văn hoá Quận 6, Tp. HCM
Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam. - 2015. - Số 4. - Tr. 11-20.
< Prev | Next > |
---|
- Một số ý kiến về văn bản quy phạm pháp luật về thư viện và hoạt động quản lý nhà nước về thư viện ở Việt Nam
- Phân tích các khoảng cách trong đánh giá chất lượng dịch vụ thư viện theo mô hình SERVQUAL
- Phát huy vai trò liên chi hội trong công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học
- Tăng cường hoạt động nghiên cứu người dùng tin và nhu cầu tin trong thư viện trường đại học phục vụ đào tạo theo học chế tín chỉ
- Học tập phục vụ cộng đồng: yêu cầu đổi mới giảng dạy chuyên ngành thư viện - thông tin
- Marketing trực tuyến và ứng dụng của marketing trực tuyến trong hoạt động thư viện - thông tin
- Hợp tác chia sẻ học liệu giải pháp tăng cường nguồn lực thông tin cho thư viện đại học Việt Nam
- Chuyên gia truyền thông tại các thư viện trường học
- Thông thạo thông tin
- Quan hệ liên kết trong biên mục xuất bản phẩm nhiều kỳ theo MARC 21