Một số ý kiến về văn bản quy phạm pháp luật về thư viện và hoạt động quản lý nhà nước về thư viện ở Việt Nam

E-mail Print

Hoạt động thư viện (TV) ở Việt Nam trong thời gian qua, mặc dù có sự phát triển, tăng cường về số lượng, cải thiện về chất lượng nhưng vẫn còn nhiều hạn chế và chưa thoả mãn được nhu cầu đọc, sử dụng thông tin và khai thác tri thức của nhân dân. Các TV ở Việt Nam luôn phải đối mặt với nguy cơ và thách thức do nhiều vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, trong đó có sự chưa hoàn thiện của pháp luật về TV và những bất cập trong hoạt động quản lý nhà nước (QLNN) về TV. Do đó, việc nhận thức sâu sắc, nhận xét và đánh giá đúng về thực trạng của văn bản quy phạm pháp luật và hoạt động QLNN về TV là một bước quan trọng trong quá trình hoàn thiện pháp luật nhà nước về TV ở Việt Nam, góp phần cải cách QLNN về văn hoá, một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà nước Việt Nam trong giai đoạn đổi mới đất nước.

1. Thực trạng văn bản pháp luật nhà nước về thư viện

Theo Hiến pháp năm 1992, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở của Hiến pháp, năm 2000, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Thư viện, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 72/2002NĐ-CP ngày 6/8/2002 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Thư viện. Để tạo thành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong phát triển TV, các Bộ, Ngành và Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân (UBND) các cấp cũng đã ban hành nhiều văn bản quy định những vấn đề liên quan đến lĩnh vực TV.

Hoạt động TV ở nước ta đã có bước phát triển đáng kể sau gần 15 năm thực hiện Pháp lệnh Thư viện và các văn bản quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Thư viện. Mạng lưới TV đã được hình thành bao gồm: Thư viện Quốc gia Việt Nam (TVQG), TV do UBND các cấp thành lập gồm 63 TV tỉnh/ thành, 626 TV cấp huyện, gần 4.000 TV cấp xã và hàng nghìn phòng đọc sách cấp xã và cơ sở; gần 400 TV trực thuộc các trường đại học hoặc tương đương; khoảng 26.000 TV trường phổ thông các cấp; trên 100 TV trực thuộc các cơ quan nhà nước, các viện nghiên cứu… và gần 50 TV tư nhân có phục vụ cộng đồng. Song song đó, tổng số sách có trong các thư viện công cộng (TVCC) vào khoảng 27.404.060 bản (bình quân 180.000 bản sách/ TV cấp tỉnh, 8.000 bản sách/ TV cấp huyện); số lượt sách luân chuyển hàng năm trong các TVCC ước tính gần 50 triệu lượt/ năm. Trong thập niên vừa qua, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động TV đã từng bước được đẩy mạnh, TV điện tử được xây dựng nhằm cung cấp thông tin cho người sử dụng được dễ dàng. Nhờ vào hệ thống TV, việc nâng cao nhận thức, tri thức của các tầng lớp nhân dân đã được cải thiện, góp phần duy trì truyền thống đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển của TV nhằm đáp ứng nhu cầu của các đối tượng sử dụng TV và nhu cầu xây dựng xã hội đọc, xã hội học tập với việc xây dựng môi trường học tập suốt đời cho mọi người dân thì hệ thống pháp luật hiện hành về TV đã bộc lộ nhiều hạn chế, cụ thể như sau:

1.1. Về phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh Thư viện

Hiện nay ở Việt Nam, nhiều cá nhân có vốn tài liệu đáp ứng yêu cầu của một TV, trong đó có nhiều tài liệu quý hiếm. Mặc dù, xã hội có nhu cầu khai thác vốn tài liệu, người sở hữu có mong muốn được phục vụ nhu cầu của xã hội và có điều kiện tổ chức phục vụ, nhưng Pháp lệnh Thư viện chưa thừa nhận thì chưa có căn cứ pháp lý để quản lý và khai thác. Lý do quan trọng là vì Pháp lệnh Thư viện chỉ điều chỉnh hệ thống TV công lập, chưa điều chỉnh TV tư nhân và TV của tổ chức, cá nhân nước ngoài thành lập và hoạt động tại Việt Nam.

1.2. Về nội dung điều chỉnh của Pháp lệnh Thư viện

Quyền và trách nhiệm của các TV và của tổ chức, cá nhân chưa được quy định cụ thể trong Pháp lệnh Thư viện làm cho TV không chủ động hoặc lơ là trong việc tổ chức các hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu của người sử dụng. Trong thực tế, các TV đều tổ chức các hoạt động để đáp ứng nhu cầu của người sử dụng nhưng không thống nhất, vì vậy, hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống TV bị hạn chế. Nghiên cứu Pháp lệnh Thư viện cho thấy trong đó có 7 chương, 31 điều quy định các vấn đề: Quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong hoạt động TV, chính sách của Nhà nước đối với TV, QLNN về TV, tổ chức và hoạt động của TV, song vẫn chưa có những quy định cụ thể về hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của TV. Bên cạnh đó, việc cần thiết phải liên thông giữa các TV để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người sử dụng cũng chưa được quy định đã hạn chế việc khai thác nguồn lực thông tin của các TV. Tình cảnh này tạo ra những bất cập trong khi việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động TV trở thành xu thế phát triển tất yếu trong lĩnh vực TV, hoạt động TV trên mạng thông tin máy tính đã xuất hiện và ngày càng phát triển.

1.3. Về chính sách phát triển thư viện

Trong Pháp lệnh Thư viện chưa có quy định cụ thể về chiến lược, hoạch định chính sách phát triển TV, vì vậy, việc áp dụng vào thực tế rất khó khăn, việc quan tâm đầu tư cho TV còn nhiều hạn chế. TV là đơn vị sự nghiệp công lập, các TV chủ yếu vẫn do cơ quan nhà nước thành lập và hoạt động bằng ngân sách nhà nước. Vì thế, các TV chưa chủ động tìm kiếm các nguồn lực khác, một phần do sự thiếu hụt các quy định về việc hoạch định chiến lược phát triển cụ thể cho TVCC Việt Nam. Hoạt động xuất bản vẫn phát triển, lượng sách xuất bản và nhập khẩu hàng năm tăng mà không đáp ứng về số lượng sách được mua bổ sung cho TV, việc bổ sung không tương xứng với sách được xuất bản hoặc nhập khẩu, cụ thể là TV không có đủ nguồn lực để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, học tập, nghiên cứu của số đông những người cần nâng cao kiến thức qua nguồn sách của TV.

1.4. Về hiệu lực của văn bản

Lĩnh vực TV - một bộ phận không thể thiếu của lĩnh vực văn hoá, đến nay chưa có Luật Thư viện để điều chỉnh, trong khi các lĩnh vực văn hoá khác như điện ảnh, di sản văn hoá, sở hữu trí tuệ, báo chí, xuất bản đều có luật để điều chỉnh. Pháp lệnh Thư viện được ban hành từ năm 2000 đến nay đã phát sinh nhiều bất cập, làm cho việc thực hiện mục tiêu phát triển của TV gặp nhiều khó khăn, vì thế hoạt động TV phát triển ngày càng chậm hơn so với các lĩnh vực văn hoá khác. Do chưa ban hành Luật Thư viện thay thế Pháp lệnh Thư viện, nên có sự hạn hẹp về phạm vi điều chỉnh, bổ sung những quy định cụ thể về nội dung hoạt động chuyên môn nghiệp vụ, quy định cụ thể các chính sách phát triển TV. Để đảm bảo tầm hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật về TV ngang với văn bản điều chỉnh các lĩnh vực khác, Quốc hội đã xác định từ Nghị quyết số 11/2007/QH12 và Nghị quyết số 07/2011/QH13 là xây dựng Luật Thư viện rất cần thiết, phù hợp với chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Trong những năm qua, các cơ quan có trách nhiệm đã soạn thảo để trình Quốc hội ban hành nhiều đạo luật để tạo cơ sở pháp lý quản lý và phát triển các hoạt động trong từng lĩnh vực.

2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về thư viện

2.1. Tổ chức và hoạt động thư viện

Hạng TV được xếp trên cơ sở phân hạng mà không phải xếp hạng là một trong những bất cập lớn nhất theo các nhà chuyên môn. Hạng TV thể hiện quy mô tổ chức, chất lượng hiệu quả hoạt động của TV, là căn cứ để xây dựng chính sách đầu tư cho từng hạng. Do vậy, hạng TV cần phải được xét xếp hạng theo các tiêu chí, tiêu chuẩn nhất định dựa trên chất lượng hiệu quả hoạt động của TV. Một hạn chế nữa là mô hình tổ chức của TV cấp huyện chưa thống nhất: Có nơi TV là một thiết chế độc lập trực thuộc UBND cấp huyện hoặc Phòng Văn hoá - Thông tin, có nơi TV là một bộ phận trực thuộc Nhà Văn hoá, Trung tâm Văn hoá, điều này đã dẫn tới sự quan tâm đầu tư không đúng mức hoặc chênh lệch khá lớn trong cùng một thiết chế TV cấp huyện.

2.2. Nguồn nhân lực của hệ thống thư viện công cộng

Các TVCC ngày càng quan tâm làm tốt các khâu tuyển chọn, đào tạo bồi dưỡng, sử dụng và duy trì nguồn nhân lực. Một số TV có đội ngũ người làm thư viện (NLTV) có chất lượng khá cao, thể hiện qua trình độ nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học như: TVQG, Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh (TVHCM), Thư viện thành phố Cần Thơ... Nhiều TV đã tăng cường đầu tư cho công tác phát triển nguồn nhân lực sau khi nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của nó đối với việc nâng cao chất lượng hoạt động và vai trò xã hội như Thư viện thành phố Hải Phòng, Thư viện tỉnh Bình Định. Công tác hợp tác quốc tế về phát triển nguồn nhân lực cũng được tăng cường.

Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ NLTV còn thấp và còn nhiều hạn chế, vẫn đang rất thiếu NLTV được đào tạo cơ bản về chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học... nhưng lại thừa NLTV không có chuyên môn hoặc chuyên môn không phù hợp với TV. Nếu tính trên tổng số NLTV của hệ thống TVCC thì số tiến sỹ chỉ chiếm 0,01%, thạc sỹ 0,23% và cử nhân là 4,91%. Về trình độ ngoại ngữ, tin học, có rất ít NLTV có thể sử dụng ngoại ngữ trong việc đọc tài liệu, giao tiếp với khách nước ngoài hay có thể dùng những kiến thức tin học viết phần mềm ứng dụng cho các hoạt động nghiệp vụ hoặc khắc phục một số lỗi trong hệ thống mạng máy tính của TV. Ngoài ra, có sự chênh lệch khá lớn về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tác phong làm việc chuyên nghiệp giữa đội ngũ NLTV ở TVQG, TV tỉnh, thành phố lớn với các TV ở các vùng miền núi hoặc biên giới.

Có xu hướng ngày càng gia tăng tỷ lệ NLTV có năng lực, trình độ chuyên môn chuyển sang các đơn vị trong ngành văn hoá hoặc ra khỏi ngành TV. Một thực tế là gần 90% nhân viên TV xã, phường, thị trấn, phòng đọc sách xã và cơ sở đều làm việc dưới dạng tình nguyện hoặc kiêm nhiệm, thời gian làm việc cho TV không ổn định và thường xuyên có sự thay đổi. Chế độ tiền lương, tiền thưởng, nhất là ở TV cơ sở còn quá thấp hoặc không có nên khó có thể đòi hỏi NLTV thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

2.3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng người làm thư viện

Đến nay công tác đào tạo NLTV ở Việt Nam đã phát triển cả về quy mô và trình độ đào tạo. Lần đầu tiên khoa Thư viện - Thông tin (TVTT) - trường Đại học Văn hoá Hà Nội mở ngành đào tạo TV năm 1961. Đến năm học 2008 - 2009, 54 trường đã tham gia đào tạo nguồn nhân lực TVTT từ bậc cao đẳng trở lên. Trong đó 09 cơ sở đào tạo NLTV ở trình độ đại học, 03 cơ sở đào tạo ở trình độ thạc sỹ và duy nhất trường Đại học Văn hoá Hà Nội đào tạo cả bốn bậc từ cao đẳng, đại học, thạc sỹ đến tiến sỹ.

Bên cạnh việc phát triển số lượng các cơ sở đào tạo, nhiều chương trình đào tạo mới cũng được biên soạn như chương trình của Trung tâm Học liệu - Đại học Cần Thơ, khoa TVTT - trường Đại học Sài Gòn. Hơn nữa, nhiều chương trình đào tạo cũ cũng được phát triển trên cơ sở bổ sung các môn học mới và nâng cấp các môn học cũ. Trong quá trình đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy, khoa TVTT - trường Đại học Văn hoá Hà Nội là một trong các cơ sở đi đầu. Cho đến nay Khoa đã ba lần đổi mới chương trình vào các năm 1992, 1997 và 2003. Đặc biệt năm 2008, Khoa lại một lần nữa xem xét bổ sung thêm một số môn học mới như: TV số, Xuất bản điện tử, Thiết kế và quản trị web, Phân tích hệ thống và Quan hệ với công chúng. Ngoài ra, Khoa cũng đang tiến hành xây dựng môn Dịch vụ TVTT trên cơ sở môn Công tác người đọc với các nội dung mới như: Phỏng vấn người dùng tin, kiến thức thông tin, kỹ năng đánh giá các nguồn tin trên mạng Internet, ứng dụng ICT để marketing sản phẩm và dịch vụ TVTT.

Tuy nhiên, tại một số cơ sở đào tạo NLTV ở Việt Nam còn tồn tại những điểm chưa hợp lý như: nhiều môn học có nội dung còn lạc hậu, một số môn học chưa kết hợp các nội dung truyền thống và hiện đại. Thực tế cho thấy nội dung môn học có thể là truyền thống, song phương pháp truyền tải nội dung lại hiện đại hoặc nội dung truyền thống, nhưng chúng được phát triển trong môi trường hiện đại. Ví dụ, công tác bảo quản hoặc biên mục, đây là các nội dung truyền thống nhưng ngày nay NLTV có thể biên mục trực tuyến hoặc kỹ thuật bảo quản các tài liệu số hoá bên cạnh các bộ sưu tập giấy truyền thống. Tương tự như vậy, nếu trước đây chúng ta chú trọng tra cứu trên các tài liệu giấy như hệ thống mục lục, sách tra cứu chỉ dẫn, bách khoa thư... thì ngày nay chúng ta có thể tra cứu trên mục lục trực tuyến (OPAC), bách khoa thư trực tuyến như Colombia Encyclopedia, bách khoa toàn thư Việt Nam trên mạng Internet, cơ sở dữ liệu toàn văn, các máy tìm tin (Search engines), danh mục (Directory), các trang web của các cơ quan tổ chức như Tổng cục thống kê, trang web Chính phủ, Công báo, trang vàng…

2.4. Đầu tư, quản lý, sử dụng vốn bảo đảm hoạt động của thư viện

Hàng năm, các TV được ngân sách Nhà nước (trung ương và địa phương) cấp tiền mua sách, báo theo định mức đầu sách, số bản trong giới hạn tối thiểu và tối đa theo loại TV: TV cấp tỉnh, thành phố; TV cấp huyện, thị xã. Định mức được áp dụng cho những TV có kho tàng thiết bị chuyên dùng cần thiết để bảo quản, xử lý kỹ thuật, cũng như tổ chức phục vụ người đọc có hiệu quả.

TV các tỉnh, huyện biên giới, miền núi, hải đảo, các TV thiếu nhi ưu tiên đầu tư trang thiết bị chuyên dùng, vốn sách, báo và trụ sở làm việc. Để đưa công tác phục vụ bạn đọc vào nền nếp, các TV phải lập kế hoạch hoạt động hàng năm có phân ra các quý và dự toán chi phí kèm theo. Sau khi kế hoạch được duyệt, cơ quan tài chính có trách nhiệm cấp phát kinh phí đảm bảo hoạt động bình thường của các TV. Việc chi tiêu của các TV phải đảm bảo đúng mục đích và kế hoạch đã được duyệt.

Mức cấp phát kinh phí thường xuyên = vốn mua sách, báo + chi phí hoạt động thường xuyên hợp lý.

Vốn mua sách, báo gồm: Ấn phẩm và tài liệu ghi trên giấy (sách, báo, tạp chí, bản đồ, tranh phiên bản, ảnh chụp…), tài liệu bằng vi phim, băng từ, đĩa ghi âm và các vật mang tin khác.

Chi phí hoạt động thường xuyên gồm:

- Tiền lương và các khoản phụ cấp lương theo chế độ hiện hành.

- Chi phí cho các hoạt động nghiệp vụ TV.

- Mua những phương tiện phục vụ do vốn sách và lượng bạn đọc tăng hàng năm.

- Chi phí quản lý hành chính.

 Việc xác định mức vốn mua sách, báo và chi phí hoạt động thường xuyên hợp lý do cơ quan chủ quản và cơ quan tài chính cùng cấp xem xét theo từng loại hình TV, theo kế hoạch hoạt động hàng năm hoặc ổn định một số năm trên cơ sở các chế độ hiện hành và giá cả tại địa phương.

2.5. Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý nhà nước về thư viện

Điều 3 Luật Thanh tra (2010) đã xác định “Hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan, nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Trên thực tế, hiện tượng vi phạm chính sách TV vẫn còn nhiều như chế độ độc hại chưa được lãnh đạo đơn vị thực thi do ảnh hưởng đến nguồn kinh phí được ổn định trong 3 năm theo Nghị định 43 của Thủ tướng chính phủ, một số TV vẫn không được cấp kinh phí cho các hoạt động thường xuyên, tình trạng vi phạm bản quyền tác giả tại các TVCC rất phổ biến như: Sao chụp tài liệu, số hoá toàn văn tài liệu và chuyển lên mạng với mục đích rao bán mà không có ý kiến đồng ý của tác giả. Nguồn sách bổ sung vào TV chưa được quy định chặt chẽ, có hiện tượng nhiều nơi thiếu sự quản lý của Nhà nước, các nhà xuất bản bắt tay với tư nhân tham gia vào hoạt động xuất bản, in, phát hành và đã cho ra đời nhiều loại "sách đen", sách "đầu nậu” như: Chúa trời ngủ gật; Chân dung nhà văn; Nổi loạn; Ly thân; Chuyện kể năm 2000; Chuyến xe ma quái... Thông qua việc đọc của bạn đọc ở TV phát hiện, báo cáo cho thanh tra Bộ, Sở và các cơ quan chức năng.

Lưu chiểu là quy định bắt buộc đối với các nhà xuất bản tham gia vào hoạt động sản xuất và phổ biến xuất bản phẩm. Chế độ nộp lưu chiểu do các nhà xuất bản thực hiện chưa đầy đủ về thời gian quy định và thiếu về số lượng. 

Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) đã chỉ đạo thanh tra Bộ VHTTDL phối hợp với ban ngành chức năng và thanh tra các Sở VHTTDL tiến hành kiểm tra thường xuyên hàng năm và kiểm tra đột xuất để nhắc nhở, chấn chỉnh kịp thời những đơn vị vi phạm, tuy nhiên vẫn còn hình thức “Giơ cao đánh khẽ” chỉ mang tính nhắc nhở, răn đe nhằm giúp cho hoạt động TV phát triển đúng định hướng, đáp ứng đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

2.6. Hợp tác quốc tế về thư viện

Mặc dù gặp nhiều khó khăn do những biến động kinh tế trong nước và thế giới, nhưng 5 năm qua (2010 - 2015), hợp tác quốc tế về TV đã đạt nhiều thành tích xuất sắc, góp phần nâng cao vị thế TV Việt Nam trên phạm vi khu vực và thế giới. Hoạt động này đã diễn ra trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều TV thuộc các hệ thống trong cả nước, mang lại những lợi ích to lớn về tinh thần và vật chất.

Có thể quy tụ những hoạt động hợp tác quốc tế tiêu biểu 5 năm qua trên một số hoạt động như: Dự án sách tiếng Anh do Quỹ châu Á (Hoa Kỳ) tài trợ; Chương trình “Tăng cường năng lực tiếp cận thông tin cho người khiếm thị” do Quỹ FORCE (Hà Lan) hỗ trợ; Dự án trang bị xe ô tô TV lưu động cho TVHCM, Thư viện Hà Nội và Thư viện tỉnh Yên Bái do Quỹ FORCE (Hà Lan), TV Quốc gia Singapore và tỉnh Van de Marne (Pháp) tài trợ; Dự án “Tăng cường năng lực sử dụng máy tính và truy cập Internet công cộng” ở 40 tỉnh, thành phố do quỹ Bill & Melinda Gates (Hoa Kỳ) tài trợ; Dự án xây dựng phòng đọc về Hoa Kỳ, Ngân hàng thế giới, phòng đọc Hàn Quốc năng động, phòng đa phương tiện… do Đại sứ quán Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Pháp và Ngân hàng thế giới hỗ trợ cho TVQG, TVHCM, Cần Thơ, Hải Phòng, Đà Nẵng, Yên Bái, Thừa Thiên Huế…; Hội Cựu chiến binh Hoa Kỳ đã hỗ trợ tỉnh Quảng Trị xây dựng 8/10 TV huyện, thị trong tỉnh.

Ngoài ra, còn có những dự án nổi bật khác như: Tổ chức KOICA (Hàn Quốc) đã đầu tư xây dựng phòng đọc đa phương tiện cho TV Hà Tĩnh…; Dự án do Quỹ SIDA (Thuỵ Điển) tài trợ, Vụ TV là chủ dự án đã tổ chức cho 22 NLTV đi học tập ở Hồng Kông và Singapore; Phối hợp với các tổ chức quốc tế, tổ chức hàng trăm cuộc trưng bày, triển lãm sách, giao lưu thư pháp, hội thảo, nói chuyện chuyên đề, Ngày Hội Sách, tặng sách, thi kể chuyện bằng tiếng Anh; TVQG phối hợp với Hội hỗ trợ giáo dục và TV Việt Nam tại Hoa Kỳ (LEAF-VN) đã tổ chức 2 lớp tập huấn về “Bộ Tiêu đề chủ đề - Subject Heading” cho 260 học viên đến từ các TV; Tháng 6/2010, lần đầu tiên TVQG đã tổ chức triển lãm sách và tranh ảnh về “Hà Nội nghìn năm văn hiến” tại Paris (Pháp). Từ 2/8 đến 2/9/2010, triển lãm này được tổ chức tại Viêng Chăn (Lào); Tháng 4/2009, Hội TV, TVQG và Vụ TV phối hợp tổ chức thành công Đại hội cán bộ thư viện các nước Đông Nam Á (CONSAL XIV) và Hội nghị Giám đốc thư viện quốc gia các nước Châu Á, Châu Đại Dương (CDNL-AO XII). Gần 1.000 đại biểu, trong đó có 350 đại biểu của 27 nước và gần 600 đại biểu thuộc các hệ thống TV trong nước đã về dự Đại hội...

3. Đánh giá hoạt động quản lý nhà nước về thư viện

3.1. Mặt được

Cho đến nay, Pháp lệnh Thư viện là văn bản quy phạm pháp luật cao nhất trong lĩnh vực TV, tạo ra động lực mạnh cho sự phát triển của sự nghiệp TV, đáp ứng những yêu cầu trước mắt trong ngành TV. Để triển khai, hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Thư viện, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 72/2002/NĐ-CP ngày 06/08/2002 Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Thư viện. Pháp lệnh Thư viện được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá X ban hành ngày 28/12/2000, gần 15 năm được triển khai thực hiện đã có những đóng góp đáng kể cho hệ thống TV gồm: TVQG, khoảng 4.689 TV do UBND các cấp thành lập, khoảng 26.400 TV trực thuộc các trường của ngành Giáo dục - Đào tạo và trên 100 TV trực thuộc các cơ quan nhà nước… chỉ tính vốn tài liệu hệ thống TVCC đến nay là 27.404.060 bản với tổng số sách luân chuyển là 50.403.268 lượt/ năm. Nhìn chung, TV cả nước đã giữ gìn di sản văn hoá thành văn của dân tộc, đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu, thông tin và hưởng thụ văn hoá của mọi tầng lớp nhân dân, góp phần nâng cao dân trí, phục vụ đắc lực nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước.

Một hành lang pháp lý quan trọng đã được kiến tạo nhằm phát triển sự nghiệp TV Việt Nam. Đó là hệ thống các văn bản pháp quy từ các nghị quyết, chỉ thị, quyết định, thông tư, nghị định của Đảng và Chính phủ… tới Pháp lệnh Thư viện của Nhà nước. Có những văn bản đã trở thành cứu cánh cho hàng trăm TV đứng vững trong những ngày đầu của cơ chế thị trường. Đó là quyết định 359 của Hội đồng Bộ trưởng về “Ngân sách Nhà nước cấp 100% cho sự nghiệp Đào tạo, Bảo tồn, Bảo tàng, Thư viện…”, Thông tư liên bộ Văn hoá – Thông tin - Tài chính số 97/TTLB về “Định mức kinh phí cho hoạt động thư viện” (1990). Nghị quyết 4, 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII, VIII xác định: “Văn hoá là nền tảng tinh thần, là mục tiêu và động lực của sự phát triển”. Đặc biệt, sự ra đời của Pháp lệnh Thư viện (năm 2001) đã tạo thế và lực cho ngành TV Việt Nam phát triển và hội nhập với TV thế giới.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực TV được thể hiện ở 2 khía cạnh: Thứ nhất, sự đầy đủ của cơ quan ban hành: Văn bản của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, văn bản của Chính phủ, của cơ quan QLNN về lĩnh vực ngành và của các Bộ, Ngành có liên quan và các Uỷ ban nhân dân các cấp ở địa phương. Thứ hai, các văn bản này đã quy định những vấn đề cơ bản nhất của thể chế TV Việt Nam, đó là: Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, đồng thời khuyến khích nhân dân tham gia xây dựng sự nghiệp TV trên cả hai mặt: đóng góp và hưởng thụ; Quy định những vấn đề cơ bản của QLNN trong lĩnh vực TV; Quy định những vấn đề về tổ chức và hoạt động của thiết chế TV: khẳng định vị trí vai trò quan trọng không thể thiếu của TV trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước; Quy định về chính sách của Nhà nước đối với hoạt động TV; Quy định quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân Việt Nam trong hoạt động TV.

Bên cạnh đó, công tác chỉ đạo, hướng dẫn kiểm tra việc thực hiện các quy định của Nhà nước cũng như tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong lĩnh vực TV được quan tâm thông qua các hình thức: gửi văn bản, đưa nội dung giới thiệu văn bản mới là một chuyên đề của các lớp tập huấn hàng năm cho NLTV công cộng các cấp; thường xuyên tổ chức đi kiểm tra, khảo sát thực tế để nắm bắt tình hình thực hiện các văn bản cũng như hoạt động của các TV. Đã hình thành và có sự phối hợp khá nhịp nhàng giữa bộ máy QLNN ngành từ Trung ương tới địa phương. Ở Trung ương, Bộ VHTTDL có Vụ TV là cơ quan giúp Bộ trưởng QLNN trong lĩnh vực TV. Ở địa phương, Sở VHTTDL có phòng nghiệp vụ Văn hoá và TV tỉnh.

Cùng với xu thế hội nhập, ngành TV Việt Nam đã phát huy tốt kinh nghiệm và truyền thống, đưa hợp tác quốc tế dần trở thành một trong những mũi nhọn của hoạt động TV Việt Nam.

3.2. Mặt hạn chế

Pháp luật về TV Việt Nam thiếu văn bản có giá trị pháp lý cao nhất - Luật Thư viện, dẫn tới việc thực thi các quy định của pháp luật trong lĩnh vực TV chưa cao. Việt Nam có một di sản thư tịch khá phong phú, phát triển dựa trên nền văn hiến lâu đời, dân tộc ta có truyền thống hiếu học, sự nghiệp TV ra đời, phát triển gắn liền với tiến trình xây dựng và phát triển của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và sau này là Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, song cho đến nay Việt Nam mới có văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất là Pháp lệnh Thư viện và chủ yếu vẫn là các văn bản pháp luật.

Văn bản quy phạm pháp luật còn nhiều bất cập, chưa thống nhất, còn chồng chéo về nội dung và không kịp thời cập nhật bổ sung, chưa được bãi bỏ hoặc sửa chữa kịp thời những quy định không còn phù hợp. Nhiều quy định mới để đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn chậm ban hành.

Bộ máy QLNN về TV từ trung ương tới địa phương chưa đảm bảo hiệu lực, hiệu quả. Ở Trung ương, cơ quan tham mưu QLNN chỉ ở cấp Vụ thay vì phải là Cục; tại các địa phương nguồn nhân lực cho công tác này ở cơ quan QLNN cấp tỉnh (Sở VHTTDL) hầu như không có biên chế chuyên môn cho lĩnh vực TV. Ngoài một Phó Giám đốc Sở có phụ trách lĩnh vực TV, thì đơn vị tham mưu giúp Sở trong công tác này lại là các TV cấp tỉnh – một đơn vị sự nghiệp không có chức năng QLNN và ở tại Phòng Văn hoá - Thông tin cấp huyện hoàn toàn chưa có biên chế QLNN về TV.

Mặt khác, hiện nay tổ chức TV cấp huyện trong cả nước chưa thống nhất, đó là TV cấp huyện trực thuộc 3 cơ quan, đơn vị khác nhau; có địa phương trực thuộc UBND cấp huyện (tỷ lệ 0,5%); có địa phương trực thuộc Phòng Văn hoá - Thông tin (tỷ lệ 45%); còn lại trực thuộc Trung tâm Văn hoá, đây thực sự là một bất cập rất lớn, làm cản trở sự phát triển ngành TV nói chung. Bên cạnh đó, mô hình TV xã cũng chưa rõ nét, hoạt động TV cơ sở tuy có xuất phát từ nhu cầu của nhân dân, nhưng phát triển chỉ mang tính tự phát.

Sự hạn chế về năng lực của đội ngũ cán bộ của cơ quan tham mưu giúp cơ quan QLNN ngành ở Trung ương cũng như địa phương cũng là một trong hạn chế lớn của thể chế TV Việt Nam đã dẫn tới hệ quả việc thực thi chức năng, nhiệm vụ chưa thực sự đạt được kết quả như mong muốn. Ngoài ra, còn những khiếm khuyết trên là do ngành TV chưa có chiến lược phát triển nguồn nhân lực, chưa thực hiện đúng quy trình tuyển chọn, đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực, chưa quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa sử dụng và bồi dưỡng NLTV... Vẫn còn tồn tại khoảng cách giữa chất lượng đào tạo với nhu cầu sử dụng NLTV của các TV.

Việc đầu tư cơ sở vật chất, hiện đại hoá trang thiết bị chuyên dùng, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong hoạt động TV cũng ít được quan tâm, nhất là TV cấp huyện và xã, phần lớn vẫn phải dùng chung trụ sở với các cơ quan khác, ít được đầu tư nâng cấp, trang thiết bị cũ và lạc hậu. Ngân sách cấp cho TV để bổ sung vốn tài liệu còn rất ít và hạn hẹp. Vốn tài liệu còn quá ít để đáp ứng nhu cầu ngày một cao của nhân dân, đặc biệt đối với nhân dân vùng sâu, vùng xa.   

Pháp lệnh Thư viện chỉ điều chỉnh hệ thống TV công lập, chưa điều chỉnh TV tư nhân và TV của tổ chức, cá nhân nước ngoài thành lập và hoạt động tại Việt Nam. Trong khi thực tế ở nước ta nhiều người có vốn tài liệu đáp ứng yêu cầu của một TV, đặc biệt có rất nhiều tài liệu quý hiếm đang được bảo tồn trong nhân dân. Thực tế, xã hội có nhu cầu chia sẻ vốn tài liệu đó, người sở hữu có mong muốn được phục vụ nhu cầu của xã hội và mong muốn có điều kiện tổ chức phục vụ cộng đồng.

Trong những năm qua, hệ thống TVCC Việt Nam dù đã có sự cố gắng nỗ lực rất nhiều của bản thân hệ thống cũng như sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước, song nhìn chung vẫn trong tình trạng lạc hậu so với trình độ phát triển của sự nghiệp TV các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới, đặc biệt là trên phương diện ứng dụng công nghệ thông tin. Sự hạn chế này là một rào cản trên con đường hội nhập quốc tế về lĩnh vực TV.

Còn tuỳ tiện thực hiện chính sách, còn thiếu những chính sách đầu tư hợp lý cho công tác phục vụ người đọc, chính sách phát triển các dịch vụ TV, chính sách phát triển vốn tài liệu… Vì vậy,  các TV nói chung và TVCC nói riêng phát triển chậm hơn so với những thiết chế văn hoá khác... Còn tồn tại chính sách chưa được cụ thể hoá, mới chỉ được quy định trên các văn bản mà chưa thể đi vào thực tế cuộc sống.

Có thể khẳng định, TV là một trong những thiết chế văn hoá quan trọng không chỉ với Việt Nam mà với với bất kỳ quốc gia, dân tộc nào. Trong nền kinh tế thông tin - tri thức, mỗi quốc gia luôn có chiến lược phát triển sự nghiệp TV dựa trên sự hoàn thiện về pháp luật để điều chỉnh lĩnh vực TV, thông qua hoạt động QLNN giúp định hướng cho lĩnh vực này hoàn thành nhiệm vụ lưu thông và khai mở tri thức cho người dân. Ở Việt Nam, do điều kiện khách quan và những lý do chủ quan mà Luật Thư viện vẫn còn đang trong “thời kỳ thai nghén” nên vẫn còn những tình trạng bất cập như đã nêu trên. Hy vọng trong tương lai không xa, với nỗ lực chung của cả nước, mà đại diện là cơ quan Quốc hội sẽ ban hành văn bản Luật có giá trị cho hoạt động TV, cũng như cơ quan tham mưu cho Chính phủ là Bộ VHTTDL sẽ đổi mới hoạt động QLNN về lĩnh vực TV bằng pháp luật, nhằm hướng tới nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động TV Việt Nam ngang tầm với sứ mệnh lịch sử của nó.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nghị định 02/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 06/01/2009 quy định về tổ chức và hoạt động của thư viện tư nhân có phục vụ cộng đồng.

2. Nghị định 72/2002/NĐ-CP của Chính phủ ngày 06/8/2002 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Thư viện.

3. Quyết định số 10/2007/QĐ-BVHTT ngày 04/5/2007 của Bộ Văn hoá - Thông tin về Phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành Thư viện Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.

4. Quyết định số 334/TC-QĐ ngày 8/11/1995 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Thư viện Quốc gia Việt Nam.

5. Pháp lệnh Thư viện: Được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 28/12/2000 và được Chủ tịch nước ký sắc lệnh số 01/2001/L-CTN ngày 11/1/2001. - H: Chính trị Quốc gia, 2001.

_________________

ThS. Bùi Xuân Đức

Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh

Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam. - 2015. - Số 4. - Tr. 3-10.


Đọc thêm cùng chuyên mục: