Tăng cường kỹ năng thực hành trong đào tạo người làm thư viện để đáp ứng yêu cầu của xã hội

E-mail Print

Đào tạo nhân lực gắn liền với nhu cầu xã hội đang là đòi hỏi cấp thiết đối với tất cả các trường, các ngành đào tạo. Ngành Thông tin - Thư viện (TT-TV) có đặc thù là ngành khoa học xã hội, nhưng lại gắn liền với khoa học thực hành. Sinh viên ngành TT-TV ra trường sẽ làm việc tại các cơ quan thư viện (TV), các trung  tâm thông tin (TTTT) với công việc đòi hỏi kỹ năng thực hành cao. Vậy chương trình đào tạo người làm TT-TV hiện nay tại các trường đã đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của xã hội chưa? Sinh viên ngành TT-TV ra trường với hành trang được đào tạo trong nhà trường liệu đã đủ kỹ năng để làm việc tại các cơ quan TT-TV chưa?

1. Xã hội cần gì?

Cùng với sự phát triển toàn diện của xã hội, hoạt động TT-TV ở Việt Nam hiện nay ngày càng nhận được sự quan tâm cũng như thách thức. Bên cạnh các cơ quan TV, các TTTT lớn có bề dày phát triển, mạng lưới TV Việt Nam hiện nay phát triển toàn diện với nhiều loại hình TV khác nhau như: TV đa ngành (TV các trường đại học, cao đẳng), TV chuyên ngành, TV trường học. Cùng với đó là sự phát triển ồ ạt, rộng khắp của các trường đào tạo cán bộ ngành TT-TV. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo đã đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn xã hội hay chưa là điều cần phải xem xét.

Để hiểu rõ yêu cầu của các nhà tuyển dụng đối với sinh viên ngành TT-TV, chúng ta cần làm rõ đặc điểm, nhiệm vụ cũng như xu hướng phát triển trong tương lai của cơ quan tuyển dụng. Trong phạm vi bài viết này, tác giả xin được tạm chia mạng lưới các cơ quan TT- TV ở Việt Nam hiện nay theo quy mô lớn, vừa và nhỏ.

Đối với các cơ quan TT-TV có quy mô lớnnhư: Thư viện Quốc gia, Thư viện Khoa học Tổng hợp, các Trung tâm TT-TV đầu ngành,… Đây là nhóm các TV có bề dày lịch sử, được đầu tư phát triển về vốn tài liệu cũng như các trang thiết bị, công nghệ hiện đại.

Hơn nữa, do quy mô TV tương đối lớn, được chia thành nhiều phòng chức năng như:  phòng nghiệp vụ, phòng thông tin, phòng bảo quản, phòng phục vụ… nên đội ngũ người làm thư viện (NLTV) tại các TV này tương đối đông, với sự chuyên môn hoá về từng khâu hoạt động. Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin (CNTT), các TV này đã và đang từng bước hiện đại hoá, ứng dụng CNTT vào trong các hoạt động của TV mình nhằm tiết kiệm thời gian, giảm thiểu sức lao động, đồng thời tăng hiệu quả phục vụ người dùng tin.

Đối với các TV có quy mô vừanhư: các cơ quan TV, TTTT tại các trường đại học, cao đẳng… Đây là nhóm các TV được quan tâm, đầu tư phát triển rất lớn của các trường trong những năm gần đây với nhiệm vụ nặng nề là phục vụ và góp phần làm thay đổi hoạt động dạy và học theo hướng tích cực. Chính vì vậy, bên cạnh nhiệm vụ truyền thống là xây dựng nguồn thông tin đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập của giảng viên và sinh viên, TV trường đại học còn phải thay đổi về phương thức hoạt động nhằm theo kịp và thúc đẩy phương pháp dạy và học tích cực. Do đó, nhìn chung mạng lưới TV trường đại học ở Việt Nam hiện nay đã và đang ứng dụng CNTT, tạo lập, xây dựng và phát triển TV điện tử nhằm đáp ứng nhu cầu của người dùng tin. Do xu hướng chung của các trường hiện nay là mở rộng, đa dạng hoá các ngành, nghề đào tạo, nên quy mô của TV trường đại học cũng ngày càng được đầu tư mở rộng, được tổ chức thành nhiều bộ phận chuyên môn hoá, NLTV cũng dần được chuyên môn hoá nhiệm vụ.

Đối với nhóm các TV có quy mô nhỏgồm: TV trường học (TV trường phổ thông), TV của các doanh nghiệp, tổ chức, TV chuyên ngành,… Đây là nhóm các TV có quy mô nhỏ, có thể được cơ cấu trực thuộc một bộ phận khác của cơ quan, hay là một bộ phận (phòng/ ban) độc lập nhưng quy mô cán bộ rất nhỏ, thường chỉ gồm một vài cán bộ (01 hoặc 2 cán bộ phụ trách). Tuy nhiên, trong khoảng 5 năm trở lại đây, mạng lưới TV trường học đang dần nhận được sự quan tâm từ lãnh đạo bởi theo Nghị định của Chính phủ, việc xây dựng TV trường học là một trong những tiêu chí đánh giá trường học đạt chuẩn quốc gia. Hơn nữa, việc tuyển dụng cán bộ phụ trách TV có chuyên môn, nghiệp vụ ngành TV cũng được coi là một trong những tiêu chí đánh giá hiệu quả của TV trường học. Do đó, cơ hội làm việc cho sinh viên ngành TT-TV tại các TV trường học vì thế cũng rộng mở hơn. Tuy nhiên, do còn nhiều bất cập, nên nhìn chung hiện nay nhóm các TV này  còn nhiều hạn chế về vốn tài liệu và ứng dụng CNTT trong các khâu hoạt động.

Như vậy, với quy mô và đặc thù của mỗi loại hình TV kể trên, chúng ta dễ dàng nhận ra đặc điểm, nhiệm vụ cũng như xu hướng phát triển khác nhau của các nhóm TV kể trên. Chính sự khác nhau này dẫn tới yêu cầu tuyển dụng NLTV của các nhóm TV kể trên là khác nhau: đối với nhóm các TV có quy mô lớn và vừa, việc tuyển dụng NLTV vừa có trình độ chuyên môn cao, vừa có kiến thức, kỹ năng tốt trong việc ứng dụng CNTT là yêu cầu bắt buộc; trong khi đó, ở các TV có quy mô nhỏ, hoạt động TV thực sự chỉ mới manh nha, do đó rất cần những NLTV có kỹ năng tổ chức, sắp xếp, quản lý TV, đồng thời có kỹ năng mềm trong các hoạt động phong trào để phù hợp với đối tượng là học sinh.

Điều này có thể dễ dàng nhận thấy qua việc khảo sát yêu cầu trong các thông tin tuyển dụng được các nhà tuyển dụng đưa ra. Khảo sát các thông tin tuyển dụng NLTV được đăng tải rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng có thể nhận thấy: hầu hết các nhà tuyển dụng đều yêu cầu ứng viên được đào tạo chuyên môn, có kinh nghiệm làm việc, sử dụng thành thạo phần mềm quản lý TV, có khả năng tổ chức, sắp xếp công việc, khả năng tổ chức các hoạt động phong trào,… Điều này cho thấy sinh viên TV ra trường với tấm bằng trong tay chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ yêu cầu nhà tuyển dụng đưa ra. Một phần rất lớn trong yêu cầu tuyển dụng đó chính là những kinh nghiệm (trải nghiệm) thực tế hay chính là kỹ năng thực hành của ứng viên, bởi điều này sẽ giúp ứng viên nếu được tuyển dụng có thể nhanh chóng làm quen và làm tốt công việc. Do đó, cơ hội giành và giữ được vị trí làm việc (sau thời gian thử việc, đối với ứng viên được tuyển dụng) đối với sinh viên mới ra trường khá vất vả.

2. Chúng ta có gì?

Xã hội yêu cầu những ứng viên dự tuyển bên cạnh việc được đào tạo chuyên môn, phải có kinh nghiệm làm việc, kỹ năng sử dụng thành thạo phần mềm quản lý TV, kỹ năng tổ chức các phong trào tuyên truyền, giới thiệu sách, khả năng tổ chức, sắp xếp công việc,… Xét về bản chất, xã hội yêu cầu ở NLTV ngoài tấm bằng về chuyên môn, phải có (và thành thục) các kỹ năng thực hành để có thể đảm đương tốt được công việc mà nhà tuyển dụng yêu cầu. Vậy, sinh viên ngành TT-TV với chương trình đào tạo hiện nay liệu đã đáp ứng được (hay đáp ứng được bao nhiêu) những yêu cầu mà nhà tuyển dụng (xã hội) đưa ra?

Trong những năm gần đây, ngành giáo dục nói chung, ngành TT-TV nói riêng đã bỏ ra rất nhiều công sức và tâm huyết trong việc đổi mới chương trình đào tạo, đổi mới phương thức đào tạo để phù hợp với thực tiễn xã hội. Xét chương trình đào tạo ngành TT-TV, có thể dễ dàng nhận thấy, các cơ sở đào tạo người làm TT-TV trong cả nước đã và đang dần đổi mới về cả nội dung và phương pháp: chương trình đào tạo với việc giảm thiểu bớt các môn học lý thuyết của TV truyền thống, thay thế vào đó là những môn về ứng dụng CNTT trong hoạt động TT-TV; phương pháp giảng dạy cũng thiên về việc dạy các kỹ năng tự nghiên cứu, tăng cường các tiết thực hành để sinh viên nắm kỹ nội dung. Tuy nhiên, việc đổi mới về cả nội dung và phương thức đào tạo sinh viên TT-TV nói trên đã đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của nhà tuyển dụng (xã hội) hay chưa?

Phỏng vấn NLTV đang làm việc tại các cơ quan TV (đặc biệt là các sinh viên mới ra trường), tác giả nhận thấy rằng hầu hết những người được hỏi đều cho rằng thời gian thực hành trong quá trình học là rất ít, phần lớn kinh nghiệm thực hành có được thông qua thời gian kiến tập, thực tập, làm cộng tác viên ở các TV. Quá trình được đào tạo trong nhà trường, tuy sinh viên đã có cơ hội được thực hành nghiệp vụ, nhưng thời gian thực hành còn rất hạn chế: đối với những môn về xử lý tài liệu, sinh viên chỉ được thực hành trong một khuôn khổ thời gian nhất định trên lớp vì tài liệu thực hành đều được mượn (khi có tiết thực hành) tại TV trường; về phần mềm TV, sinh viên được học về việc sử dụng và xử lý tài liệu trên phần mềm TV CDS/ISIS - vốn được UNESCO cung cấp miễn phí, nhưng lại quá lạc hậu nên hiện nay  rất ít TV còn sử dụng; trong khi đó phần mềm TV tích hợp (hiện đang được các TV sử dụng phổ biến) lại chỉ được giới thiệu qua, không được thực hành nên rất khó đọng lại trong đầu sinh viên.

Những kiến thức sinh viên thu nhận được trong quá trình thực tập chỉ giúp họ nắm bắt sơ bộ (điểm tên) những công việc chính trong TV, chứ chưa hình dung ra những công việc cụ thể trong các TV. Bởi lẽ, khi thực tập tại các đơn vị, sinh viên chỉ được hướng dẫn một vài khâu đơn giản trong dây chuyền TT-TV như: biên mục (trên worksheet), sắp xếp tài liệu trên giá, phục vụ bạn đọc… mà không được thực hành hết tất cả các công đoạn trong nghiệp vụ TV.

Qua phỏng vấn, tác giả cũng được biết việc những sinh viên mới tốt nghiệp được nhận đi làm ngay ở một cơ quan TT-TV, phần lớn là do sinh viên đó có mối quan hệ tốt với đơn vị tuyển dụng từ lúc thực tập, hay do tham gia làm cộng tác viên của TV đó. Điều này có thể lý giải được bởi họ đã có một thời gian tìm hiểu, được hướng dẫn và làm quen với công việc tại đơn vị. Tuy nhiên, sau một thời gian công tác (khoảng 2 đến 4 tháng), họ vẫn không thể nắm được hết các công việc trong TV đó, mà chỉ nắm được công việc được giao. Điều này có thể hiểu và chấp nhận được trong những TV có quy mô lớn – nơi công việc được chuyên môn hoá thành các khâu, ngoài ra có đội ngũ cán bộ nòng cốt (có kinh nghiệm làm việc lâu ở TV đó) hướng dẫn, đào tạo cho người mới được tuyển dụng. Còn đối với các TV có quy mô nhỏ, đang trong thời kỳ xây dựng, nhân sự thường chỉ có 1-2 người nên việc hướng dẫn, đào tạo cho người mới tuyển dụng thường không có, mà họ sẽ phải tự làm quen và tìm hiểu công việc. Vì vậy, nếu được tuyển dụng mà không được trang bị kỹ năng thực hành, không có đủ kinh nghiệm thực tế, người được tuyển dụng sẽ cảm thấy lúng túng, mất khá nhiều thời gian trong việc làm quen và xây dựng kế hoạch.

3. Cần phải làm những gì?

Như đã phân tích ở trên, có thể nhận thấy rằng: nhà tuyển dụng (xã hội) yêu cầu rất cao ở kỹ năng thực hành, kinh nghiệm thực tế của ứng viên; trong khi đó với kỹ năng thực hành ít ỏi sinh viên cóp nhặt được trong quá trình được đào tạo trong nhà trường và thời gian thực tập, sinh viên mới ra trường khó có thể thích nghi ngay với thực tiễn công việc ở các TV. Khi đó, các TV tuyển dụng sẽ phải tiến hành công tác đào tạo và đào tạo lại cho những cán bộ mới. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc đánh giá chất lượng đào tạo từ phía nhà tuyển dụng (xã hội) đối với trường đào tạo, thậm chí ảnh hưởng rất lớn đến cơ hội việc làm của sinh viên, nhất là trong thời kỳ hiện nay khi có rất nhiều trường cùng đào tạo NLTV, trong khi cơ hội việc làm chưa đáp ứng hết nhu cầu của sinh viên.

Chính vì vậy, để nâng cao uy tín, chất lượng đào tạo của nhà trường, thiết nghĩ các Khoa đào tạo người làm TT-TV cần phải tăng cường hơn nữa cơ hội và kỹ năng thực hành cho sinh viên. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả xin mạnh dạn đề xuất một số khuyến nghị sau trong việc nâng cao kỹ năng thực hành cho sinh viên ngành TT-TV.

3.1. Xây dựng phòng thực hành cho sinh viên

Đối với chuyên ngành TV, việc thực hành xử lý tài liệu đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc đào tạo NLTV. Tuy nhiên, hiện nay thời gian thực hành xử lý tài liệu trong một số môn học như: Biên mục mô tả, Định từ khoá, Biên mục chủ đề, Tóm tắt – Chú giải – Tổng luận,… sinh viên chỉ được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định trên lớp (theo số tiết trong chương trình đào tạo) và qua thời gian thực hành tại các cơ quan TT-TV.

Tuy nhiên, thời gian thực hành trên lớp khá ít, số lượng sinh viên lại đông, nên giảng viên khó có thể kiểm tra kết quả thực hành cho từng sinh viên hoặc sinh viên chỉ được thực hành một số ít các trường hợp. Còn đối với thời gian thực tập tại các TV, do thời gian ngắn (khoảng từ 4 -6 tuần), TV lại được yêu cầu phải giới thiệu và hướng dẫn sinh viên thực hành ở một vài công đoạn, nên việc thực hành xử lý tài liệu cũng chưa thể bao quát nhiều trường hợp trong thực tế.

Chính vì vậy, việc xây dựng phòng thực hành cho sinh viên ngành TT-TV trong thời gian này có thể được coi là phương án tối ưu nhất, nếu xây dựng được phòng thực hành này, tất cả các môn học có liên quan đến thực hành đều có thể sử dụng được. Hơn thế nữa, sẽ có thêm một số môn vốn chỉ được tham quan thực tế tại các TV như Tổ chức và Bảo quản tài liệu, Phát triển nguồn tin, Thư viện trường học,… thì nay có thể cho sinh viên thực hành. Ngoài ra, khi có phòng thực hành, có thể yêu cầu sinh viên (hay sinh viên tự nguyện) tham gia thực hành ngoài giờ lên lớp bằng việc phân công sinh viên luân phiên trực giống như một TV bình thường.

Phòng thực hành có thể được xây dựng bằng nhiều nguồn khác nhau như: kinh phí của trường đào tạo; sự đóng góp của giảng viên và sinh viên; xin viện trợ (tặng sách, báo) từ các cơ quan TTTV, các tổ chức, các nhà xuất bản. Việc lựa chọn cách thức xây dựng như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện của từng trường đào tạo. Tuy nhiên, theo tác giả, cách thức xin viện trợ tài liệu từ các cơ quan TT-TV, các tổ chức hay các nhà xuất bản là khả thi nhất vì ở những cơ quan TTTV lớn (Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia…) luôn có nguồn sách dự án và thường có chương trình  tặng sách cho các đơn vị. Hơn nữa, việc lựa chọn phương án này sẽ giúp tiết kiệm kinh phí cho nhà trường, đồng thời giúp tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa Khoa đào tạo và các tổ chức.

Tuy nhiên, việc xây dựng phòng thực hành cho sinh viên không thể thay thế được thời gian kiến tập và thực tập tại các cơ quan TT-TV khác. Bởi lẽ, phòng thực hành chỉ là mô hình TV giúp sinh viên tạo lập kỹ năng thực hành trong quá trình học, còn kỹ năng đó sẽ được rèn luyện, tăng cường hơn nữa khi tiếp xúc với môi trường thực tế. Hơn nữa, việc kiến tập, thực tập ở các TV ngoài xã hội sẽ tạo cơ hội cho sinh viên làm quen và tạo mối quan hệ đối với nhà tuyển dụng sau khi ra trường.

3.2. Lựa chọn và đưa phần mềm quản lý thư viện tích hợp vào giảng dạy, cho sinh viên thực hành

Phần mềm quản lý TV tích hợp hiện nay có vai trò quan trọng trong việc giúp TV tự động hoá hoạt động, quản lý dễ dàng và là một trong những công cụ cần thiết để xây dựng TV điện tử. Vì vậy, để được nhận vào làm việc và làm việc tốt tại các TV, sinh viên cần có kỹ năng sử dụng thành thạo phần mềm quản lý TV.

Việc giảng dạy phần mềm TV CDS/ISIS hiện nay đã lạc hậu, không còn phù hợp với thực tiễn xã hội. Do đó, cần phải lựa chọn và đưa vào giảng dạy, hướng dẫn sinh viên thực hành phần mềm TV tích hợp - hiện đang được sử dụng phổ biến ở các TV nước ta.

Nếu có được phần mềm TV tích hợp, chúng ta có thể cho sinh viên thực hành xử lý tài liệu trong phòng thực hành, tiến hành xây dựng một TV hoàn chỉnh từ việc in ấn thẻ bạn đọc, bổ sung, lập sổ đăng ký tổng quát, sổ đăng ký cá biệt, xử lý tài liệu (ở nhiều mức độ khác nhau), quản lý bạn đọc, thống kê, lập báo cáo…

Hơn thế nữa, từ phần mềm quản lý TV này, chúng ta có thể tạo lập cơ sở dữ liệu từ phòng thực hành, làm cơ sở thực hành cho các môn như: Khai thác và tìm kiếm thông tin, Tự động hoá hoạt động TT-TV…

Vấn đề khó khăn hiện nay đối với các Trường/ Khoa đào tạo NLTV là không thể mua bản quyền của một phần mềm quản lý TV tích hợp do giá cả đắt (khoảng từ vài chục đến vài trăm triệu đồng). Điều này hoàn toàn có thể giải quyết được bằng việc thương lượng với nhà cung cấp phần mềm.

Thực tế ở một số trường đào tạo NLTV cho thấy việc Khoa đặt vấn đề đề nghị nhà cung cấp viết phần mềm quản lý TV (nhưng ở phiên bản có dung lượng nhỏ hơn, cam kết chỉ phục vụ công tác giảng dạy) để phục vụ cho công tác đào tạo là có thể thực hiện được. Khi đó, cả Khoa đào tạo và nhà cung cấp phần mềm đều có lợi ích: Khoa đào tạo có tư liệu để giảng dạy, sinh viên có cơ hội thực hành; nhà cung cấp thì có cơ hội quảng bá và bán sản phẩm bởi lẽ nếu đưa sản phẩm của mình vào giảng dạy, những sinh viên ra trường khi có quyền quyết định mua phần mềm nào cho TV mình sẽ thường ưu tiên mua những phần mềm mình đã nắm rõ.

3.3. Tăng cường thực hành kỹ năng tổ chức các phong trào trong thư viện

Hiệu quả phục vụ bạn đọc chính là thước đo đánh giá hiệu quả hoạt động của một TV. Chính vì vậy, làm thế nào để thu hút được đông đảo bạn đọc đến và sử dụng hiệu quả nguồn thông tin trong TV luôn là nhiệm vụ quan trọng của bất kỳ cơ quan TT-TV nào. Vì thế, công tác tuyên truyền, giới thiệu sách phải được quan tâm thực hiện. Điều này cũng đòi hỏi NLTV phải có kỹ năng trong việc tổ chức các phong trào hoạt động TV.

Trong quá trình được đào tạo trên ghế nhà trường, sinh viên thường được nhắc đến vai trò quan trọng cũng như các loại hoạt động tuyên truyền, các cuộc thi, triển lãm sách ở TV. Tuy nhiên, điều này mới chỉ dừng lại ở mức độ biết, còn mức độ thực hành rất hạn chế. Những kỹ năng hoạt động phong trào sinh viên cóp nhặt được chủ yếu thông qua việc tham gia các hoạt động đoàn thể của nhà trường. Chính vì vậy, khi bắt tay vào làm thực tế, sinh viên thường tỏ ra lúng túng, bị động, khó chủ động đưa ra những ý tưởng mới.

Vì vậy, rất cần thiết đưa kỹ năng thực hành các hoạt động tuyên truyền trong TV vào chương trình giảng dạy. Điều này có thể được thực hiện bằng việc các giảng viên thường xuyên tổ chức cho sinh viên tham gia viết bài và tổ chức hoạt động giới thiệu sách trong phạm vi môn học, trong sinh hoạt ngoại khoá hay việc tạo cơ hội cho sinh viên tham gia các cuộc thi tuyên truyền giới thiệu sách được tổ chức giữa các trường đào tạo NLTV. Hoạt động này tuy ít, nhưng đã tạo được sự hào hứng cho sinh viên khá tốt trong vài năm gần đây bằng việc Thư viện Quốc gia Việt Nam (hay Vụ Thư viện) đứng ra mời các trường đào tạo NLTV trên địa bàn Hà Nội tham dự cuộc thi tuyên truyền giới thiệu sách được tổ chức hàng năm vào Ngày Sách và Bản quyền thế giới.

Kết luận

Đào tạo phải luôn gắn liền với thực tiễn của xã hội. Để nâng cao uy tín và sức cạnh tranh cho sinh viên, nhà trường (Khoa đào tạo) cần thiết phải tăng cường hơn nữa kỹ năng  thực hành trong việc đào tạo sinh viên. Điều này vừa giúp sinh viên của trường có thế mạnh cạnh tranh với sinh viên trường bạn, có cơ hội việc làm cao, vừa chính là phương thức nâng cao uy tín của Khoa đào tạo, là cách thức marketing thuyết phục và hiệu quả nhất trong việc thu hút người học.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Mục Thông tin tuyển dụng cán bộ thư viện trên các trang web.

2. “Nhọc lòng” kỹ năng thực hành của sinh viên. www.laodong.com.vn, truy cập tháng 4/2014.

3. Dương Thị Vân. Phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống thư viện trường phổ thông // Tạp chí Thư viện Việt Nam. 2009. - Số 1 . - Tr. 40-44.

______________

ThS. Đoàn Thị Thu

Khoa TV-TTH, Trường ĐHKHXH&NV, Tp.HCM

Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam. - 2014. - Số 4. - Tr. 12-17.


Đọc thêm cùng chuyên mục: