Thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM) là một trong những trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội của cả nước, đồng thời là trung tâm giáo dục lớn và quan trọng của Việt Nam. Nơi đây tập trung hàng nghìn nhà nghiên cứu và hàng triệu học sinh, sinh viên. Do đó nhu cầu nghiên cứu, học tập của người dân trên địa bàn rất lớn. Để đáp ứng được nhu cầu đó, tại Tp. HCM đã tập trung một số lượng lớn các viện nghiên cứu và các trung tâm thông tin - thư viện, trong đó có hệ thống thư viện quận, huyện (TVQH). Nhiệm vụ đặt ra cho các trung tâm thông tin - thư viện nói chung và TVQH nói riêng là làm sao đáp ứng một cách cao nhất nhu cầu của người dân trên địa bàn, cũng như những nhu cầu nghiên cứu về mọi mặt của các nhà nghiên cứu. Để làm được điều đó đòi hỏi hệ thống TVQH Tp. HCM không chỉ có nguồn lực thông tin lớn, có đội ngũ người làm thư viện chuyên nghiệp, cũng như trang thiết bị, cơ sở vật chất hiện đại mà còn đòi hỏi phải có một hệ thống sản phẩm và dịch vụ thư viện - thông tin (SPDVTVTT) với chất lượng cao, phong phú, đa dạng và hiện đại.
SPDVTVTT có vai trò rất quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu của người dùng tin (NDT), đặc biệt trong giai đoạn hiện nay với những yêu cầu thông tin ngày càng đa dạng và phong phú của NDT. Hệ thống TVQH ở Tp. HCM là một hệ thống thư viện công cộng rộng lớn về địa lý, có tiềm lực mạnh mẽ về nguồn nhân lực và nguồn lực thông tin. Không chỉ vậy, TVQH còn là một địa chỉ lớn của Tp. HCM, nơi thường xuyên tổ chức các hoạt động giao lưu văn hoá với nhiều hình thức. NDT đến với hệ thống TVQH cũng rất đa dạng với nhiều trình độ, lứa tuổi, mục đích, nhu cầu tin cũng rất phong phú. Để có thể đáp ứng những yêu cầu đó TVQH cần phải cung cấp rất nhiều dạng SPDVTVTT nhằm thoả mãn nhu cầu tin của mọi thành phần NDT đến thư viện. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, sự bùng nổ thông tin và tri thức, SPDVTVTT của hệ thống TVQH Tp. HCM đã và đang không đáp ứng kịp với nhu cầu tin của NDT. Việc nghiên cứu và đánh giá lại SPDVTVTT nhằm đưa ra những biện pháp nâng cao chất lượng các SPDVTVTT, đáp ứng tốt hơn, đầy đủ hơn nhu cầu của NDT là vấn đề cấp thiết. Bên cạnh đó, TVQH cần có những bước chuyển tiếp mạnh mẽ từ hình thức thư viện truyền thống sang thư viện hiện đại. Vì vậy, cần nghiên cứu xây dựng hệ thống SPDVTVTT mới, hiện đại, phù hợp với sự phát triển chung của xã hội, sẵn sàng cho việc phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu, giải trí, nâng cao trình độ của NDT trong thời gian tới. Bài viết giới thiệu tổng thể về hệ thống các SPDVTVTT mà TVQH Tp. HCM đang cung cấp, đưa ra định hướng và đề xuất các giải pháp nhằm phát triển các SPDVTVTT, nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu tin của NDT tại TVQH Tp. HCM và cả nước nói chung trong thời gian tới.
1. Hệ thống thư viện quận, huyện với sự nghiệp phát triển xây dựng nông thôn mới ở thành phố Hồ Chí Minh
TVQH là một thiết chế văn hoá ở địa phương, thực hiện chức năng văn hoá ở mọi nơi. Thư viện trở thành trung tâm sinh hoạt văn hoá, giúp mọi người hiểu biết tất cả các loại hình văn hoá, lôi cuốn nhân dân và các tầng lớp xã hội vào hoạt động sáng tạo các giá trị văn hoá. Ngoài nhiệm vụ bảo quản và truyền bá các di sản văn hoá bằng chữ viết, thư viện còn trở thành một trung tâm sinh hoạt văn hoá được ưa chuộng như tổ chức các cuộc thi kể chuyện sách, vẽ tranh, văn nghệ, toạ đàm theo chủ đề về cuốn sách yêu thích. Thư viện là cơ quan giáo dục ngoài nhà trường, trang bị tri thức cho cộng đồng, cho nhân dân để vươn lên hoàn thiện nhân cách văn hoá của mình. Thư viện đã góp phần không nhỏ vào công tác xoá mù chữ và nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân ở địa phương. Hệ thống TVQH còn là nơi đáp ứng nhu cầu giải trí ở địa phương. Trong điều kiện các phương tiện nghe nhìn, trò chơi điện tử phát triển, các thư viện cần phối hợp với nhà trường, gia đình đưa ra các giải pháp để điều tiết hợp lý thời gian vừa đọc sách vừa giải trí của các em học sinh. Khi kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện thì việc định hướng sử dụng thời gian nhàn rỗi vào việc đọc sách, báo, nâng cao trình độ và giải trí sao cho phù hợp chính là nhiệm vụ của thư viện. Là trung tâm thông tin ở cấp cơ sở, thoả mãn nhu cầu thông tin của nhân dân. TVQH là trung tâm thông tin gắn với sản xuất, nghiên cứu khoa học. Là cơ quan cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Ngoài ra, thư viện còn cung cấp các tài liệu khoa học kỹ thuật giúp bà con ứng dụng vào sản xuất. Cung cấp các tài liệu về cây trồng, vật nuôi tăng năng suất, chất lượng cao. TVQH còn cung cấp các tài liệu về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, công nghệ, văn hoá, nghệ thuật… đáp ứng nhu cầu học tập, sản xuất và nghiên cứu khoa học. Mặt khác, TVQH còn cung cấp những tin tức, sự kiện hàng ngày đến đời sống cộng đồng.
Trong thời đại bùng nổ thông tin ngày càng phát triển như vũ bão hiện nay thì hệ thống các SPDVTVTT đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động thư viện - thông tin (TVTT) của các cơ quan TVTT nói chung và TVQH Tp. HCM nói riêng. Chất lượng của SPDVTVTT được xem là thước đo hiệu quả hoạt động, là yếu tố cụ thể hoá chức năng nhiệm vụ của cơ quan TVTT, là yếu tố quan trọng của nguồn lực thông tin; là phương tiện để quản lý hoạt động TVTT của một cơ quan TVTT; giúp cho các cơ quan TVTT trao đổi, chia sẻ nguồn lực thông tin với nhau. Giúp NDT xác định truy cập, khai thác các nguồn tin của các TVQH một cách dễ dàng và nhanh chóng; đồng thời giúp NDT nâng cao năng lực khai thác thông tin và thoả mãn nhu cầu tin của NDT.
Trong thực tế, cả sản phẩm và dịch vụ thông tin đều có chức năng là thoả mãn nhu cầu NDT. Có thể coi SPDVTVTT được ra đời gần như cùng lúc với nhau. Một cơ quan TVTT bất kỳ muốn đáp ứng được tốt nhất nhu cầu NDT, cũng như để thu hút họ đến với thư viện đều phải có những hệ thống SPDVTVTT phong phú và hoàn hảo. Trong TVQH, muốn sản phẩm được mở rộng, phát triển thì phải đa dạng hoá các loại hình dịch vụ. Ngược lại, muốn phát triển các dịch vụ cần phải không ngừng đa dạng hoá, nâng cao chất lượng của sản phẩm. Hệ thống sản phẩm đa dạng, phong phú mà thiếu đi một hệ thống dịch vụ thì NDT không thể khai thác một cách hiệu quả nguồn lực thông tin từ sản phẩm và ngược lại. Khi có một hệ thống dịch vụ đầy đủ, hiện đại, công nghệ cao mà thiếu đi một hệ thống sản phẩm thì dịch vụ đó cũng không phát huy được tác dụng và không mang lại hiệu quả như mong muốn.
2. Thực trạng các sản phẩm và dịch vụ thư viện - thông tin tại hệ thống thư viện quận, huyện thành phố Hồ Chí Minh
2.1. Sản phẩm thư viện - thông tin
Các sản phẩm TVTT quận, huyện Tp. HCM đang cung cấp có thể chia ra làm các nhóm sản phẩm sau: Hệ thống mục lục – thư mục - các cơ sở dữ liệu (CSDL) tra cứu.
Hệ thống mục lục tra cứu là một dạng sản phẩm TVTT có vai trò trong tra cứu và tìm tin. Các TVQH Tp. HCM đang sử dụng hai hình thức mục lục tra cứu:
- Mục lục truyền thống: Có thể nói trước đây trong số các sản phẩm TVTT mà TVQH cung cấp cho NDT thì hệ thống mục lục tra cứu dạng phiếu chính là những sản phẩm TVTT đầu tiên và phục vụ NDT hiệu quả nhất. Hiện nay các TVQH đã ứng dụng công nghệ thông tin trong hầu hết các hoạt động thư viện, tuy nhiên, hệ thống mục lục phiếu truyền thống này vẫn còn tồn tại và phát huy hiệu quả tra tìm tin của mình.
- Mục lục hiện đại (Opac): Đây chính là mục lục dạng phiếu đã được điện tử hoá lưu trên máy tính, truyền qua mạng viễn thông… NDT có thể sử dụng máy tính để truy cập trực tuyến vào hệ thống mục lục điện tử đặt ngay tại thư viện để tìm kiếm thông tin thông qua phần mềm của thư viện Libol hay ISIS, với việc sử dụng mục lục điện tử, NDT có thể tìm kiếm dễ dàng tài liệu theo nhiều điểm truy cập: Tác giả, nhan đề, từ khoá, chủ đề… Mục lục điện tử này cũng cho phép NDT in kết quả, lưu kết quả và xuất kết quả đến hộp thư điện tử của mình. Điều này thuận lợi cho NDT trong việc lưu giữ kết quả tìm tin.
- Thư mục giới thiệu sách mới: Là loại thư mục được biên soạn giới thiệu các tài liệu mới được bổ sung vào thư viện. Đối với thư mục giới thiệu sách mới của TVQH được tổ chức biên soạn không theo định kỳ hàng tháng mà khi tài liệu, sách, báo mới bổ sung về thư viện biên mục xong, thư viện sẽ tiến hành in một thông báo sách mới làm thư mục giới thiệu sách mới để giới thiệu cho NDT. Kết quả điều tra NDT cho thấy, hơn 44,5% NDT sử dụng Thư mục giới thiệu sách mới để hỗ trợ cho việc tìm tài liệu và gần 30,6% NDT đánh giá là tốt, 36,7% đánh giá tương đối tốt, 24,6% đánh giá không tốt.
- Thư mục chuyên đề: Thư mục này rất ít TVQH Tp. HCM biên soạn, được biên soạn theo từng chuyên đề nhất định. Nó có mục đích rõ ràng và phục vụ cho loại đối tượng nhất định, chủ yếu phục vụ nhiệm vụ chính trị, sản xuất và đời sống của nhân dân.
- Thư mục bài trích báo, tạp chí: Là thư mục giới thiệu những bài báo, tạp chí trích trong các báo, tạp chí liên quan đến một chủ đề nào đó mà NDT quan tâm tìm kiếm, hiện nay thư mục này đang được lãnh đạo địa phương quan tâm và đang có rất nhiều NDT sử dụng vì hiện nay trên thị trường báo và tạp chí quá nhiều, NDT không còn thời gian chọn lựa những bài viết chuyên đề hay để đọc, vì thế thư viện đã chọn lọc những bài viết hay từ nhiều báo, tạp chí để làm ra các sản phẩm chuyên đề có giá trị, giúp cho NDT không mất nhiều thời gian tìm kiếm.
2.2. Dịch vụ thư viện - thông tin
Dịch vụ TVTT là hoạt động cơ bản mà TVQH thực hiện nhằm giúp cho NDT nhận được những thông tin phù hợp với nhu cầu của mình. Hiện tại, TVQH triển khai cung cấp các dịch vụ sau:
- Cung cấp tài liệu: Là một dịch vụ cơ bản của các cơ quan TVTT, nhằm giúp NDT sử dụng được tài liệu phù hợp với nhu cầu tin của mình. Dịch vụ này được triển khai dưới các hình thức như: đọc tại chỗ, mượn về nhà.
+ Đọc tại chỗ: Là hình thức phục vụ mang tính truyền thống của các TVQH. Ðây là dịch vụ cơ bản cung cấp tài liệu gốc nhằm giúp NDT thoả mãn nhu cầu tin của mình. Dịch vụ đọc tại chỗ là một yêu cầu không thể thiếu được đối với NDT của TVQH Tp. HCM. Tại đây, NDT có thể được đáp ứng nhu cầu tra cứu tài liệu, tìm các thông tin dữ kiện, số liệu, các thuật ngữ, bài báo, tạp chí và các vật mang tin khác trong kho. Dịch vụ đọc tại chỗ của các thư viện được tổ chức theo phương thức kho mở. Về phương thức phục vụ: tài liệu được sắp xếp theo chỉ số phân loại DDC nên nội dung kho sách được giới thiệu một cách đầy đủ, khoa học, tạo điều kiện thuận lợi cho NDT khai thác các nguồn tài liệu tham khảo tại Thư viện.
Ưu điểm của dịch vụ đọc tại chỗ theo hình thức kho mở: NDT trực tiếp vào kho lựa chọn tài liệu và đọc lướt ngay tại chỗ, xác định tài liệu đó có cần hay không, hoặc họ có thể đọc tài liệu khác có nội dung tương tự mà không phải mất thời gian viết phiếu yêu cầu, không phải chờ đợi, tạo cho NDT có cảm giác thoải mái khi lựa chọn tài liệu, vòng quay tài liệu nhiều hơn.
Nhược điểm: Kho sách bị lộn xộn, sách xếp sai vị trí. Tài liệu nhanh chóng bị hư hại, rách nát do NDT sử dụng nhiều lần, việc bảo quản kho sách khó hơn, dễ mất do NDT ra vào nhiều. Qua điều tra cho thấy đa số NDT trong TVQH thích dịch vụ này.
+ Mượn về nhà: Cho phép NDT mang tài liệu về nhà sử dụng trong một thời gian nhất định. Dịch vụ này giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của TVQH. Đây là dịch vụ thu hút được nhiều NDT, tiết kiệm được thời gian tra cứu cho NDT, giúp NDT có thời gian lưu trữ sách lâu hơn. Đối với các tài liệu mượn về của Thư viện được tổ chức theo hình thức kho mở, NDT có thể trực tiếp lựa chọn tài liệu mà mình cần, sau đó mang đến Quầy lưu hành làm thủ tục mượn về. Tuy nhiên, hiện nay các TVQH Tp. HCM rất hạn chế về diện tích, kinh phí nên việc mượn - trả tài liệu hầu hết còn quản lý bằng thủ công, vì vậy, người làm thư viện mất thời gian phải tìm hồ sơ, ghi vào sổ mượn - trả của NDT.
- Luân chuyển sách: Là dịch vụ luân chuyển sách từ TVQH đến thư viện phường, xã, ấp, khu phố trên địa bàn quận, huyện, là một trong những hoạt động quan trọng của TVQH nhằm hỗ trợ các thư viện phường, xã về nguồn lực thông tin mà các thư viện này gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển nguồn tin phục vụ NDT.
- Triển lãm, trưng bày, giới thiệu sách: Dịch vụ triển lãm, trưng bày giới thiệu sách thường được các thư viện tổ chức gắn liền với các sự kiện lớn trong đời sống chính trị, văn hoá, xã hội của đất nước, của địa phương. Hàng năm các TVQH Tp. HCM tổ chức trung bình từ 5-7 cuộc triển lãm và đã tạo được những hiệu ứng tốt trong NDT. Cuốn hút không chỉ người dân của quận, huyện đó mà còn có tác dụng đến người dân là khách tham quan ở các nơi khác đến.
2.3. Đánh giá sản phẩm thư viện - thông tin trong hệ thống thư viện quận, huyện thành phố Hồ Chí Minh
Ưu điểm: Các sản phẩm TVTT do TVQH cung cấp giúp NDT có thể tìm được những tài liệu mà TVQH đang có bằng cách sử dụng các sản phẩm TVTT và công cụ tra cứu mà thư viện cung cấp như: mục lục truyền thống và hiện đại, các CSDL tra cứu tại chỗ. Hệ thống mục lục được tổ chức tương đối khoa học và hợp lý, các thư mục được xây dựng bởi đội ngũ người làm thư viện có kinh nghiệm ở tất cả các khâu, từ xử lý nội dung, xử lý hình thức để có những thông tin giá trị nhất về nội dung tài liệu. Các sản phẩm TVTT của Thư viện được tổ chức miễn phí nên tạo điều kiện thuận lợi và thu hút NDT, giúp cho việc nâng cao kiến thức học tập và nghiên cứu khoa học.
Nhược điểm: Sản phẩm TVTT chưa đa dạng, gần như không có sản phẩm TVTT hiện đại như CSDL toàn văn, CSDL số hoá, điều này cũng dễ hiểu bởi cho tới nay quá trình hiện đại hoá TVQH của Tp. HCM vẫn chưa được thực hiện, các sản phẩm TVTT còn ít và rất hạn chế. Các sản phẩm mang tính marketing cho hoạt động thư viện còn quá ít, quá nghèo nàn, có nơi còn chưa có, các sản phẩm chưa nhận được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo. Các danh mục, thư mục giới thiệu sách mới được biên soạn nhưng chưa được chú trọng, CSDL chưa được hiệu đính thường xuyên nên tính chính xác chưa cao, còn nhiều biểu ghi trùng nhau, nhiều ký hiệu phân loại, từ khoá chưa chính xác gây khó khăn trong việc tìm tin. Việc giới thiệu các sản phẩm TVTT cho NDT còn yếu, số lượng NDT biết đến các sản phẩm TVTT của thư viện chưa nhiều. Người làm thư viện chưa có đủ kỹ năng cần thiết để cung cấp những sản phẩm TVTT có chất lượng cao (ngoại ngữ, tin học, kỹ năng phân tích, tổng hợp).
2.4. Đánh giá dịch vụ thư viện - thông tin trong hệ thống thư viện quận, huyện thành phố Hồ Chí Minh
Ưu điểm: Phần lớn các dịch vụ TVTT tại TVQH cung cấp miễn phí, các dịch vụ hiện có của TVQH thân thiện và thuận tiện với NDT. Trong hầu hết các trường hợp NDT chỉ cần làm thẻ là có thể sử dụng toàn bộ các dịch vụ do TVQH cung cấp. Thủ tục làm thẻ dễ dàng, không mất phí.
Nhược điểm: Các dịch vụ TVTT của Thư viện còn mờ nhạt, chưa thể hiện hết vai trò của mình. Nhiều dịch vụ chưa được đưa vào hoạt động như: dịch vụ cung cấp thông tin theo chuyên đề, dịch vụ hỏi đáp, dịch vụ thông tin định hướng (chỉ dẫn thông tin), dịch vụ trao đổi thông tin, dịch vụ phổ biến thông tin có chọn lọc, dịch vụ sao chép tài liệu, dịch vụ cung cấp đa phương tiện…
Kỹ năng giao tiếp đối thoại với NDT của người làm thư viện tại TVQH ít được chú ý, đào tạo, tập huấn. Vì vậy việc nắm bắt tâm lý NDT hiểu được nhu cầu của họ còn quá kém.
Nguyên nhân của hạn chế: Thư viện chưa được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, chưa xây dựng được một chiến lược hoạch định lâu dài cho việc phát triển các SPDVTVTT, chưa thực sự chú trọng đến việc phát triển và đa dạng hoá các loại hình SPDVTVTT. Một số TVQH nhân viên phụ trách thư viện không học chuyên ngành thư viện nên việc xử lý, biên soạn các sản phẩm hay tổ chức các dịch vụ mới còn gặp nhiều khó khăn.
2.5. Đánh giá về hiệu quả sản phẩm và dịch vụ thư viện - thông tin của hệ thống thư viện quận, huyện thành phố Hồ Chí Minh
Thực tế hiện nay, lượng thông tin được cung cấp trong Thư viện không đa dạng và phong phú, TVQH gặp nhiều khó khăn trong tổ chức và hoạt động. Với yêu cầu về nhiệm vụ công tác nghiên cứu khoa học trong giai đoạn hiện nay, các SPDVTVTT của TVQH còn tồn tại nhiều nhược điểm. Chính vì vậy, TVQH cần có những giải pháp thích hợp, khả thi để hoàn thiện hơn nữa các SPDVTVTT cả về chất lượng và hiệu quả phục vụ, nhằm đáp ứng được nhu cầu tin một cách tốt nhất.
3. Các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ thư viện - thông tin của hệ thống thư viện quận, huyện thành phố Hồ Chí Minh
3.1. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ thư viện - thông tin
Hiện nay, các TVQH đã có số lượng biểu ghi rất lớn, bao quát hầu hết nguồn lực thông tin của 24 TVQH. Vì vậy, khi chuyển sang mục lục điện tử, NDT có thể tìm được những tài liệu phù hợp với yêu cầu của mình nhanh chóng và chính xác, tiết kiệm thời gian. Điểm yếu của hệ thống mục lục điện tử phụ thuộc vào cơ sở vật chất, trang thiết bị, máy tính, phần mềm. Vì thế, các TVQH cần phải có kế hoạch hợp tác với nhau để lập trang web chung cho 24 TVQH nhằm đảm bảo chất lượng thông tin.
Nâng cao chất lượng thư mục chuyên đề và thư mục báo, tạp chí. Hai thư mục này được các cấp lãnh đạo rất quan tâm vì giúp ích rất nhiều cho việc tìm kiếm tài liệu phục vụ cho nhiệm vụ chính trị xã hội. Nghiên cứu nâng cao hình thức của thư mục, cần được in ấn với mẫu mã, hình thức đẹp, nên bổ sung các hình ảnh nếu là thư mục chuyên đề sẽ có sức thuyết phục hơn. Tăng cường số lượng các bài trích báo, tạp chí dưới dạng toàn văn.
Nâng cao chất lượng các CSDL. Cần thống nhất cấu trúc các biểu ghi trong các CSDL, tạo điều kiện chia sẻ nguồn lực thông tin giữa các TVQH với nhau, có thể thành lập một bộ phận chuyên môn lưu động chuyên xử lý nghiệp vụ và nhập dữ liệu với mục đích có sự nhất quán trong phân loại, định từ khoá, định chủ đề…
Chú trọng hoạt động marketing, có thể là tờ rơi, giới thiệu về TVQH trên các trang web, trang mạng xã hội như facebook, youtube… triển lãm tại các công viên để giới thiệu về TVQH. Bên cạnh đó, cũng cần chú trọng đến các sản phẩm dành cho các cấp lãnh đạo địa phương. Nếu thực hiện tốt thì số lượng NDT biết đến và sử dụng thư viện sẽ tăng lên, có thể làm thay đổi quan niệm về vai trò, vị trí của các cấp lãnh đạo đối với thư viện.
3.2. Nhóm giải pháp phát triển sản phẩm và dịch vụ thư viện - thông tin
Mở rộng dịch vụ sao chép tài liệu: các TVQH cần đầu tư dịch vụ sao chép tài liệu vì đây là hình thức phục vụ NDT sử dụng các dịch vụ của thư viện và cũng là nguồn thu nhập tăng thêm cho thư viện. Tuy nhiên, cần chú ý và tuân theo Luật Bản quyền.
Cung cấp tài liệu đa phương tiện: Đây là dịch vụ mới đối với TVQH. Dịch vụ này tạo nên dựa trên cơ sở số lượng các tài liệu điện tử đã có tại thư viện trong thời gian gần đây, khi sử dụng dịch vụ này NDT được tra cứu Internet miễn phí, tìm kiếm các tài liệu điện tử…
Phát triển dịch vụ phổ biến thông tin có chọn lọc và dịch vụ tìm tin (hỏi đáp): Chủ động cung cấp thông tin có chọn lọc cho các cấp lãnh đạo dưới hình thức các thư mục tổng quan về tình hình phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của quận, huyện. Các tài liệu và nguồn thông tin sẽ được quản lý về nội dung và được biên soạn thành thư mục để cung cấp cho các nhà quản lý, giúp họ nắm bắt tình hình phát triển của quận, huyện một cách hệ thống, nhanh chóng và chính xác nhất. Từ đó sẽ nâng lên vị thế của thư viện đối với các nhà lãnh đạo. Phát triển dịch vụ tìm tin (hỏi đáp theo 2 hình thức dịch vụ tra cứu thông tin và dịch vụ thông tin định hướng) giúp NDT tìm đến nguồn thông tin phù hợp với yêu cầu của họ. Yêu cầu người làm thư viện phải có khả năng nắm vững về nguồn tài liệu trong thư viện mình, có kỹ năng giao tiếp, nắm bắt nhu cầu, mục đích tìm tin của NDT. Có kỹ năng xây dựng chiến lược tìm tin và cách thức tìm nhanh nhất.
Dịch vụ mượn liên thư viện: Để tiến hành dịch vụ mượn liên thư viện, cần có một số yếu tố cơ bản như: CSDL của các TVQH dùng chung, phần mềm mượn liên thư viện... Bên cạnh đó, cũng cần một số chuẩn cơ bản như: Khung phân loại, MARC 21, AACR2. Trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay, sự hợp tác giữa các thư viện là rất cần thiết, nhằm tiết kiệm tối đa kinh phí cho các thư viện và NDT, mà vẫn đảm bảo sự thoả mãn về nhu cầu tin. Hiện tại, TVQH có thể tiến hành dịch vụ này theo cách liên kết với 24 TVQH thành viên trong khu vực Tp. HCM khi tổ chức mục lục liên thư viện.
Để dịch vụ này được áp dụng có hiệu quả, 24 TVQH cần thống nhất một số quy định về thủ tục mượn liên thư viện như: chính sách mượn, quy trình mượn – trả, chính sách đòi tài liệu hay chế tài trong trường hợp NDT không trả hay làm mất tài liệu... Bên cạnh đó, các thư viện cần kết hợp chặt chẽ với nhau trong việc đề nghị bổ sung tài liệu để tránh bổ sung trùng lặp. Việc tổ chức dịch vụ mượn liên thư viện giữa 24 TVQH thành viên với nhau sẽ gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn đầu mới triển khai. Do vậy, cần có sự phối hợp và bàn bạc chặt chẽ giữa các thư viện trước khi triển khai dịch vụ mượn liên thư viện, vì đây là dịch vụ đòi hỏi phải có sự đầu tư và sự quan tâm của Ban Giám đốc Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM. Có như vậy, 24 TVQH mới triển khai được dịch vụ này để mở rộng nguồn lực thông tin, tiết kiệm kinh phí bổ sung tài liệu, công sức xử lý tài liệu và tạo điều kiện thuận lợi cho NDT khai thác nguồn tài liệu một cách có hiệu quả.
Dịch vụ dịch tài liệu: 24 TVQH có một số nguồn tài liệu ngoại văn, chủ yếu là sách tiếng Anh, Nga. Tham khảo được tài liệu này, đòi hỏi NDT phải có trình độ ngoại ngữ nhất định. Tuy nhiên, số lượng NDT có thể đọc được những loại hình tài liệu này không phải là nhiều. Do vậy, Thư viện có thể hỗ trợ NDT dịch các tài liệu theo yêu cầu. Dịch vụ này mở ra sẽ thoả mãn được nhu cầu tin cho NDT một cách thuận tiện và nhanh nhất. Đây cũng là dịch vụ mang lại nguồn thu cho thư viện, do vậy, cần phải đưa ra chính sách thu phí hài hoà nhất với NDT.
Dịch vụ đăng ký mượn qua mạng: Hiện tại, 24 TVQH chỉ cho mượn tài liệu tại thư viện. Hình thức này sẽ thuận lợi với những NDT có thời gian đến thư viện để tự tìm tài liệu, còn đối với những NDT không có thời gian đến thư viện tìm tài liệu thì việc triển khai dịch vụ đăng ký mượn qua mạng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho NDT trong việc mượn tài liệu. Hình thức mượn tài liệu qua mạng thực chất là NDT có thể đăng ký mượn tài liệu đó trước trên mạng, sau đó mới đến thư viện để lấy tài liệu. Dịch vụ đăng ký mượn qua mạng, được triển khai sẽ giúp NDT tiết kiệm được rất nhiều thời gian và thuận tiện trong việc mượn tài liệu. Dịch vụ này mở ra rất phù hợp với một thư viện hiện đại và mang lại những lợi ích nhất định cho NDT, giúp ngày càng thu hút NDT đến với thư viện hơn.
3.3. Các giải pháp hỗ trợ
Tăng cường nguồn lực thông tin có chất lượng: TVQH tương lai sẽ là mô hình thư viện hiện đại, hiệu quả hoạt động của thư viện trước hết phụ thuộc vào chất lượng và sự đầy đủ của nguồn tin. 24 TVQH Tp. HCM tuy có quy mô nhỏ nhưng phải phục vụ nhu cầu tài liệu về nhiều lĩnh vực cho tất cả các đối tượng NDT trong quận, huyện. Thực tế cho thấy số lượng, nội dung, loại hình tài liệu của các TVQH chưa đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu khai thác của người dân, vì vậy, việc lựa chọn, bổ sung tài liệu phù hợp với NDT là rất cần thiết. Để tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng nguồn lực thông tin, 24 TVQH phải tăng cường thêm kinh phí (kể cả nguồn kinh phí ngân sách hay dự án) và phân bổ hợp lý nguồn kinh phí cho bổ sung tài liệu và có chính sách bổ sung hợp lý, khoa học về diện tài liệu, loại hình tài liệu, ngôn ngữ tài liệu, số lượng tài liệu. Bên cạnh đó, thư viện cần có những biện pháp cụ thể giúp cho việc bổ sung tài liệu phù hợp với nhu cầu tin.
Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị: Cơ sở vật chất trang thiết bị là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả chất lượng các SPDVTVTT của 24 TVQH Tp. HCM. Hiện nay, hầu hết các TVQH chưa được đầu tư kinh phí thường xuyên, vì vậy, cơ sở vật chất và các trang thiết bị của thư viện cơ bản không được trang bị nên lỗi thời, lạc hậu... Trước sự phát triển mạnh mẽ của các công nghệ hiện đại trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay thì 24 TVQH đang tụt hậu. Các thư viện phải thường xuyên nâng cấp cơ sở vật chất và các trang thiết bị, cần phân bổ nguồn kinh phí để sử dụng một cách hợp lý, có hiệu quả thiết thực nhất như: máy tính, máy sao chụp, máy in, giá sách, xe đẩy sách... Hàng năm, cần tu bổ và đầu tư thêm cơ sở vật chất, trang thiết bị mới nhằm tạo ra môi trường và không gian học tập tốt nhất cho NDT trong 24 TVQH. Bố trí máy móc, trang thiết bị một cách hợp lý để đáp ứng nhu cầu học tập và nghiên cứu của NDT. 24 TVQH cũng cần bổ sung thêm chỗ ngồi và không gian học tập cho NDT.
Ngoài ra, 24 TVQH cũng nên tạo điều kiện cho người làm thư viện (cán bộ quản lý và phụ trách các trang thiết bị) đi tham quan học tập kinh nghiệm tại các thư viện tiên tiến trong và ngoài nước. Giúp họ có cái nhìn định hướng khi cung cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị cho thư viện khi cần trang bị thêm.
Nâng cao trình độ người làm thư viện: Ngày nay, khi công nghệ thông tin đã trở thành một yếu tố quan trọng trong hoạt động TVTT thì vai trò của người làm thư viện cũng có nhiều thay đổi. Họ không chỉ thực hiện đơn thuần các nhiệm vụ lưu giữ, bảo quản và phục vụ tài liệu một cách truyền thống mà còn phải biết khai thác, xử lý thông tin theo công nghệ mới, hiện đại. Bên cạnh đó, người làm thư viện cần có kiến thức chủ đề chuyên sâu và các mối quan hệ để làm tốt dịch vụ tìm tin trực tuyến và trên phương tiện, vật mang tin mới.
Để có thể nâng cao chất lượng hoạt động của thư viện hiện đại, cũng như ngày một nâng cao chất lượng của các SPDVTVTT tại 24 TVQH, thì việc nâng cao trình độ cho đội ngũ người làm thư viện là việc làm cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng, số lượng đội ngũ người làm thư viện cần xem xét theo hướng bồi dưỡng, tuyển dụng thêm nhân viên chuyên môn.
Ðể thực hiện được những yêu cầu trên, người cán bộ quản lý cần thường xuyên được đào tạo về những lĩnh vực sau: trình độ chính trị, trình độ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ. Bên cạnh đó, người cán bộ quản lý phải thường xuyên tham gia các hội nghị, hội thảo có định hướng, được tạo điều kiện tham quan, học hỏi kinh nghiệm của các cơ quan TVTT tiên tiến trong và ngoài nước, nắm bắt được xu hướng phát triển của hoạt động TVTT theo hướng hiện đại để có khả năng đánh giá tình hình, đưa ra được những quyết định đúng đắn và kịp thời.
Nâng cao chất lượng hướng dẫn NDT: NDT là một trong những bộ phận quan trọng, là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động khai thác TVTT. Các nhu cầu tin của NDT là cơ sở để thư viện triển khai các SPDVTVTT, đồng thời cũng chính NDT là người đánh giá chất lượng của SPDVTVTT do thư viện cung cấp. Trong bất kỳ một hệ thống TVTT nào nếu NDT thiếu hiểu biết về kỹ năng sử dụng các SPDVTVTT thì việc khai thác thông tin sẽ không đạt hiệu quả. Do đó đòi hỏi việc đào tạo, hướng dẫn NDT, hướng dẫn sử dụng thư viện càng trở nên cấp thiết. Mục đích của việc hướng dẫn NDT là cung cấp cho họ những thông tin về cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động của Thư viện và cung cấp cho họ những thông tin về cách tiếp cận và khai thác các SPDVTVTT một cách có hiệu quả. Qua điều tra việc sử dụng các SPDVTVTT tại thư viện cho thấy, đa số NDT vẫn còn thói quen sử dụng các SPDVTVTT như đọc tại chỗ, mượn về nhà, tra cứu qua hệ thống mục lục, danh mục tài liệu, các thư mục thông báo sách mới. Còn các sản phẩm như CSDL (nhất là CSDL tiếng Anh), CD-ROM, tìm tin trên mạng còn nhiều NDT chưa sử dụng.
Cho đến nay, 24 TVQH chưa triển khai việc hướng dẫn NDT sử dụng thư viện. Để hướng dẫn NDT đạt hiệu quả, 24 TVQH cần biên soạn nội dung chương trình bồi dưỡng cụ thể, nên tập trung đi sâu vào những vấn đề cần thiết, có cập nhật và bổ sung thường xuyên những thông tin mới cho phù hợp với sự phát triển của thư viện như: biên soạn các hướng dẫn kỹ năng thực hành tìm kiếm, xác định phạm vi thông tin, cách đánh giá nguồn tin trên mạng, cách sao chép lưu trữ dữ liệu, cẩm nang giới thiệu về thư viện... Bên cạnh những nội dung hướng dẫn cụ thể và các hình thức đào tạo NDT, thì 24 TVQH cũng cần duy trì việc tổ chức hướng dẫn này thường xuyên, liên tục và có kế hoạch cụ thể nhằm giúp NDT có thể sử dụng, khai thác tốt các SPDVTVTT hiện có của 24 TVQH. Qua đó, sẽ thúc đẩy hoạt động TVTT của thư viện phát triển mạnh mẽ hơn, thu hút nhiều đối tượng NDT đến với thư viện.
Việc nâng cao, phát triển SPDVTVTT và tích hợp kênh thông tin Internet là rất cần thiết. Việc đầu tư này giúp cho sự đa dạng SPDVTVTT, giúp NDT có điều kiện học tập, nghiên cứu, giải trí thuận lợi hơn. Hiện tại, các SPDVTVTT của 24 TVQH chưa phát huy tốt chức năng của mình, chưa đủ để đáp ứng nhu cầu tin ngày một gia tăng.
Như vậy, để tiến hành việc phát triển các SPDVTVTT cần có sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, các phòng ban chức năng. Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp đầu tư cho phát triển thư viện hiện đại nói chung và nâng cao chất lượng, phát triển các SPDVTVTT nói riêng sẽ là yếu tố đảm bảo cho việc nâng cao hiệu quả phục vụ thông tin, nâng cao chất lượng phục vụ, góp phần tạo nên các sản phẩm nghiên cứu khoa học mang hàm lượng tri thức cao, góp phần đáp ứng yêu cầu học tập, nghiên cứu, giải trí của NDT tại 24 TVQH Tp. HCM. Có thể nói, trong bất kỳ cơ quan TVTT nào, vai trò của các SPDVTT được cơ quan đó cung cấp đều có ý nghĩa quan trọng, phần nào quyết định đến sự phát triển của thư viện đó. Thêm vào đó là sự thay đổi thói quen sử dụng thư viện, cách thức tiếp cận thông tin của NDT. NDT có xu hướng ngày càng đòi hỏi cao hơn trong việc cung cấp hệ thống SPDVTVTT ưu việt, mang tính hiện đại. Mỗi SPDVTVTT được nâng cao về chất lượng đồng nghĩa với việc 24 TVQH Tp. HCM sẽ tiếp tục thu hút được NDT đến với mình. Đa dạng hoá các SPDVTVTT giúp cho 24 TVQH Tp. HCM không bị lệ thuộc thái quá vào một sản phẩm hay một dịch vụ TVTT nào đó, đồng thời mở ra hướng đi mới trong tương lai của thư viện. Để có thể thực hiện đồng thời các nhóm giải pháp đã được nêu trên, đòi hỏi 24 TVQH Tp. HCM phải nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ bao gồm đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ người làm thư viện. Đầu tư nghiên cứu những hướng đi cơ bản thiết thực, những thế mạnh sẵn có của thư viện.
Với tư cách là cánh tay phải của Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM, hệ thống TVQH cần có sự hỗ trợ mạnh mẽ cả về chủ trương, chính sách, kinh phí từ các cơ quan chủ quản và từ sự giúp sức của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Vụ Thư viện, Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM. Như vậy, hệ thống TVQH Tp. HCM sẽ xứng đáng là Trung tâm Kinh tế - Văn hoá - Giáo dục của cả nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Lê Trọng Hiển. Thị trường sản phẩm và dịch vụ thông tin: kinh nghiệm thế giới và việc áp dụng vào Việt Nam // Tạp chí Thông tin và Tư liệu. - 2008. - Số 3.
2. Nguyễn Huy Thắng. Phát triển các dịch vụ thông tin trong các cơ quan thông tin - thư viện // Tạp chí Thông tin và Tư liệu. - 2010. - Số 1.
3. Nguyễn Hữu Hùng. Một số vấn đề về chính sách phát triển sản phẩm và dịch vụ thông tin tại Việt Nam // Tạp chí Thông tin và Tư liệu. - 2008. - Số 2. - Tr. 1-6.
4. Trần Mạnh Tuấn. Sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện: Giáo trình. - H.: Trung tâm Thông tin Tư liệu Khoa học và Công nghệ Quốc gia, 1998.
5. Trần Mạnh Tuấn. Về hệ thống sản phẩm và dịch vụ thông tin // Tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội. - 2003. - Số 5.
6. Trần Mạnh Trí. Sản phẩm và dịch vụ thông tin: Thực trạng và các vấn đề // Tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội. - 2003. - Số 4. - Tr. 19-20.
__________________
ThS. Trần Văn Hồng
Trung tâm Văn hoá Quận 6, Tp. Hồ Chí Minh
Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam. - 2015. - Số 6. - Tr. 15-23.
< Prev | Next > |
---|
- Đề xuất mô hình phát triển nguồn lực thông tin cho hệ thống thư viện công cộng Việt Nam
- Quy định về hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của thư viện và việc thực hiện, áp dụng vào thực tiễn quản lý và tổ chức hoạt động trong các thư viện hoạt động bằng ngân sách nhà nước
- ZOPIM - Giải pháp hỗ trợ trực tuyến cho thư viện các trường đại học Việt Nam
- Xu hướng đổi mới hoạt động thư viện đại học giai đoạn hiện nay
- Thư viện trường phổ thông với việc hình thành và rèn luyện thói quen, kỹ năng sử dụng thông tin của học sinh
- Nghiên cứu hành động: cách tiếp cận trong nghiên cứu hành vi thông tin của người dùng tin
- Áp dụng công cụ quản lý chất lượng toàn diện trong hoạt động thư viện - thông tin ở Việt Nam
- Lợi thế tiếp cận thông tin qua thư viện số với tiếp cận thông tin qua kênh xuất bản, phát hành
- Xây dựng mô hình tổ chức quản lý và phương thức hoạt động thư viện Việt Nam
- Phát triển các loại hình sản phẩm và dịch vụ thư viện - thông tin trong các trường đại học hướng tới mô hình đại học nghiên cứu