I. Sự cần thiết củng cố vững mạnh mạng lưới thư viện cấp huyện:
1. Những yêu cầu cơ bản để phát triển văn hóa đọc:
- Có chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển văn hóa đọc với tầm Chiến lược quốc gia.
- Có nhiều sách. Sách mới. Sách đẹp. Sách hay, nội dung tốt, thiết thực.
Sách đáp ứng nhu cầu đọc cho các đối tượng. Sách miễn phí hoặc giá rẻ, phù hợp với khả năng người mua.
- Có nơi phục vụ việc đọc thuận tiện: nhà thư viện với phòng đọc rộng rãi, thoáng mát, đủ ánh sáng. Nơi đọc sách công cộng ở vị trí thuận tiện cho việc đi lại của bạn đọc trong khu vực. Thủ tục đăng ký bạn đọc dễ dàng, mở cửa vào thời gian thích hợp. Bạn đọc được tiếp cận trực tiếp với sách báo muốn đọc.
- Nơi đọc sách công cộng luôn có sách báo mới, phong phú nhiều chủng loại. Có máy tính kết nối đường truyền Internet tốc độ cao. Bạn đọc được đọc trên máy miễn phí.
- Cán bộ phòng đọc sách công cộng phục vụ tận tình, văn minh, lịch sự, có năng lực hỗ trợ tốt cho bạn đọc tra cứu tìm tin.
- Các cấp, các ngành, đặc biệt của ngành Giáo dục - Đào tạo và toàn thể các gia đình có trách nhiệm, cùng phối hợp với hệ thống Thư viện công cộng trong việc hình thành một thế hệ đọc sách trong 5-10 năm tới.
Với những yêu cầu như vậy, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực cần tham gia để triển khai chiến lược phát triển văn hóa đọc. Trước hết, đó sẽ là nhiệm vụ của ngành Tuyên giáo, ngành Giáo dục, Thư viện (TV), Xuất bản, Phát hành sách, Thông tin - Truyền thông, Hội Nhà văn, Hội Thư viện, các đoàn thể… Để chiến lược đạt được những mục tiêu như mong muốn, việc hình thành mạng lưới TV tỉnh, huyện, cơ sở (xã hoặc thôn làng, bản ấp) và trường học vững mạnh là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định. Đây sẽ là một chương trình mang tính quốc gia rộng lớn. Căn cứ thực tế hiện nay của nước ta và năng lực có tính khả thi, theo chúng tôi bước đầu cần tạo nên sự đột phá cho việc phát triển văn hóa đọc ở cộng đồng trong 5-10 năm tới: Vấn đề củng cố vững mạnh toàn bộ mạng lưới thư viện cấp huyện (huyện, thị, quận).
2. Vì sao lại lựa chọn việc củng cố vững mạnh mạng lưới TV huyện - bước đi đầu trong 5 năm tới?
- Để xây dựng văn hóa đọc trong cộng đồng, nhất thiết chúng ta phải xây dựng mạng lưới TV, tủ sách ở cấp xã, thôn làng vững mạnh. Việc củng cố TV huyện là bước đi đầu tiên trước khi chúng ta triển khai việc xây dựng mạng lưới TV cơ sở. Căn cứ năng lực nhiều mặt hiện nay của hệ thống TV công cộng, chúng ta chưa nên tiến hành đồng thời xây dựng TV ở cả 2 khu vực huyện và cơ sở. Vì đối với TV huyện “xây dựng” sẽ là củng cố cái đã có, nhưng nếu là TV cơ sở sẽ phải là xây dựng TV mới hoàn toàn. Để đảm bảo tính bền vững, tránh tình trạng TV cơ sở “chết non”, “chết yểu” hàng loạt như đã từng xảy ra trong những năm 70, 80 của thế kỷ trước, 5 năm đầu (2010 - 2015), nên tập trung sức lực, dành mọi ưu tiên cho việc củng cố vững mạnh mạng lưới thư viện huyện.
- Mỗi tỉnh có tới hàng trăm xã, TV tỉnh không thể trực tiếp chỉ đạo, xây dựng và hỗ trợ phong trào đọc cho nhân dân ở cấp xã. TV huyện sẽ là “cánh tay” nối dài của TV tỉnh, là lực lượng trực tiếp thay TV tỉnh triển khai chiến lược phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng.
- Củng cố tốt mạng lưới TV huyện sẽ tạo nên hiệu ứng lan tỏa cho việc phát triển văn hóa đọc. Thực tế cho hay, nơi có TV huyện vững mạnh thì huyện đó có phong trào đọc tốt. Việc củng cố TV huyện có nhiều thuận lợi, vì đây là loại hình TV công lập có truyền thống, nề nếp, có cán bộ và các quy định về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, kỹ thuật, nghiệp vụ. Số lượng gần 700 đơn vị là vừa phải, phù hợp với khả năng của Bộ trong việc đầu tư củng cố.
- Ban Quản lý dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy cập internet công cộng” (Bộ Thông tin-Truyền thông), cho biết, trong giai đoạn 2010-2015, quỹ Bill and Melinda Gates sẽ đầu tư về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin cho gần 400 TV huyện trong cả nước. Đây là cơ hội để giúp mạng lưới TV huyện được củng cố vững mạnh.
II. Thực trạng mạng lưới TV huyện hiện nay:
Theo số liệu thống kê của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), cả nước hiện nay có 63 TV cấp tỉnh; 597/697 TV cấp huyện; 5.311 TV, tủ sách cấp xã; 8.111 TV, tủ sách của cộng đồng dân cư; 986 phòng đọc của thiếu nhi trong các TV; 6.729 điểm bưu điện văn hóa xã - nơi có phòng đọc sách công cộng. Như vậy, còn 100 huyện chưa có TV.
Để có cơ sở đánh giá chính xác thực trạng mạng lưới TV huyện, năm 2009, Thư viện Quốc gia Việt Nam (TVQG) đã tiến hành điều tra 245/613 TV chiếm 40% TV huyện tiêu biểu ở tất cả các vùng miền của cả nước. Theo số liệu tổng hợp từ hơn 850 trang phiếu điều tra và một số tư liệu do Vụ Thư viện công bố, chúng tôi xin đưa ra một số số liệu cơ bản như sau:
1. Trụ sở TV huyện: “Thư viện” là nhà sách
Khác với các hoạt động, nói tới thư viện (TV truyền thống) hiện nay, trước hết phải nói tới trụ sở TV. Hàng năm, hệ thống TV công cộng Trung Quốc đều có thống kê diện tích m2 của các TV tăng giảm như thế nào. Trụ sở TV là một tiêu chí để đánh giá sự quan tâm của lãnh đạo địa phương và hiệu quả hoạt động của các thư viện.
Theo thống kê của Vụ Thư viện tháng 5/2008:
+ 47 TV chưa có trụ sở, phải thuê, mượn nhà (chiếm 10%). Trong số đó đã có những TV phải đóng cửa vì đơn vị cho thuê đòi lại nhà.
+ 216 TV huyện chưa có trụ sở riêng, vẫn phải ở chung với cơ quan, tổ chức khác (chiếm 50%).
+ 244 TV có trụ sở riêng biệt (chiếm hơn 40%), mới có hơn 50% số đó được xây dựng trụ sở bằng ngân sách địa phương, ngân sách Chương trình mục tiêu quốc gia và tài trợ của nước ngoài như: Quảng Trị, Bình Phước... Số còn lại đều là nhà cấp 4 đã xuống cấp trầm trọng.
Như vậy, mới chỉ có khoảng 130 TV huyện trong cả nước có trụ sở tương đối khang trang, đạt tiêu chuẩn trụ sở thư viện cấp huyện. Gần 500 TV (không tính số huyện chưa có TV) đang có nhu cầu xây dựng trụ sở.
2. Vốn tài liệu của các TV huyện:
Năm 2009, điều tra 245 TV/613 TV huyện, kết quả cho thấy:
* Tổng số sách của 245 TV huyện: 2.925.710 bản (Bình quân 1 TV có 11.401 bản sách).
- TV nhiều sách nhất: 92.887 bản
- TV ít sách nhất: 430 bản
* Tổng số tên báo-tạp chí: 4531/249 TV (Bình quân 1 TV có: 18,49 tên)
- TV nhiều nhất: 118 tên
- 28 TV không có báo - tạp chí Số sách hiện có tính theo bản
Số lượng sách ở 1 TV - Số lượng TV
Dưới 10.000 bản sách 142 TV = 57%
Dưới 20.000 bản sách 71 TV = 28,5%
Dưới 30.000 bản sách 16 TV = 6,4%
Dưới 40.000 bản sách 5 TV = 2,0%
Dưới 50.000 bản sách 2 TV = 0,8%
Dưới 60.000 bản sách 0
Dưới 70.000 bản sách 1 TV = 0,4%
Trên 70.000 bản sách 2 TV = 0,8%
Tổng số: 239 TV có báo cáo
- Bình quân, các TV bổ sung mới: 47 bản và 24 tên báo, tạp chí/năm.
* Theo số liệu thống kê trên, chúng ta nhận thấy:
+ Với vốn sách hạn chế hiện nay, các TV không thể thực hiện việc cho mượn giữa TV huyện với TV cơ sở, càng không có điều kiện tổ chức TV lưu động trên địa bàn.
+ Các TV huyện được cấp quá ít kinh phí để bổ sung sách báo hàng năm. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm suy yếu, hạn chế rất nhiều năng lực hoạt động hiệu quả của TV huyện.
3. Kinh phí được nhà nước cấp:
- Theo báo cáo của Vụ Thư viện năm 2008:
+ Số TV được cấp kinh phí ổn định thường xuyên hàng năm: 296 TV/613 TV chiếm 59,7%. Tuy nhiên mức cấp không nhiều, không đảm bảo để TV bổ sung đủ cơ số sách báo cũng như triển khai các hoạt động chuyên môn khác.
+ Số TV được cấp kinh phí nhưng không thường xuyên: 76 TV/613 TV chiếm 35,5%.
+ Số TV không được cấp kinh phí: 24 TV/613 TV chiếm 4,8%.
- Số liệu điều tra năm 2009 của TVQG, kinh phí của các TV huyện được cấp hàng năm:
+ Năm 2007: 43.627.335đ. Năm 2008: 49.888.376đ tăng 11,4%. Kinh phí này dành cho mua sách báo mới và tổ chức các hoạt động của TV trong cả năm.
+ TV được cấp nhiều nhất: 510.000.000đ
+ TV được cấp ít nhất: 1.500.000đ
* Qua thống kê tình hình kinh phí nhà nước cấp cho TV huyện hoạt động, chúng ta dễ dàng nhận thấy:
+ Hầu như toàn bộ mạng lưới TV huyện đều trong tình trạng được cấp kinh phí quá ít để hoạt động. Số lượng TV được cấp trên 100.000.000đ chỉ chiếm 2,4%. Có thể nói, cả nước cũng chỉ có 2-3% số TV huyện có đủ điều kiện về kinh phí để hoạt động tốt. Con số này còn quá khiêm tốn.
+ Sự quan tâm đến TV huyện của các chính quyền địa phương rất hạn chế. Điều này diễn ra tương đối phổ biến, không chỉ ở khu vực các tỉnh còn khó khăn về kinh tế. Nguyên nhân chủ yếu do nhận thức chưa đúng về vai trò, vị trí của TV huyện. Với lượng kinh phí ít ỏi, trong khi giá thành sách báo thì cao, việc bổ sung sách mới quá ít là điều tất nhiên. Do đó các hoạt động nhằm thu hút bạn đọc, xây dựng phong trào đọc, triển khai các dịch vụ thông tin cũng rất hạn chế.
+ Hiệu lực của các văn bản pháp quy, cao nhất là Pháp lệnh Thư viện còn nhiều bất cập. Các văn bản, đặc biệt các Thông tư về biên chế và ngân sách còn thiếu ý kiến đồng thuận bằng văn bản của các bộ chủ quản nên hiệu lực thi hành của cấp dưới không cao. Điều này đã diễn ra trong nhiều thập niên nhưng chưa được khắc phục.
4. Cán bộ TV huyện:
- Theo số liệu điều tra 245 TV của TVQG:
+ Tổng số cán bộ: 399 người. Bình quân 1,62 người/1 TV, trong đó:
+ TV có 1 cán bộ: 144 TV, chiếm 58%
+ TV có 2 cán bộ: 70 TV, chiếm 28,6%
+ TV có 3 cán bộ: 20 TV, chiếm 8,2%
+ TV có 4 cán bộ: 6 TV, chiếm 2,4%
+ TV có 5 cán bộ: 2 TV, chiếm 0,8%
+ TV có 6 cán bộ: 2 TV, chiếm 0,8%
+ TV có 9 cán bộ: 1 TV, chiếm 0,4%
- Về trình độ cán bộ:
+ Trình độ đại học: 147 người, chiếm 36,8%
+ Trình độ trung cấp: 168 người, chiếm 42,1%
+ Trình độ sơ cấp: 84 người, chiếm 21%
* Qua số liệu điều tra, chúng ta nhận thấy:
- 86,6% TV huyện chỉ có 1-2 cán bộ. Đây là con số đáng báo động, đây là một trong những nguyên nhân hạn chế việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của TV huyện theo quy chế mà Bộ Văn hóa Thông tin đã quy định.
- Các TV huyện thuộc các tỉnh miền Nam, bao gồm miền Đông và Tây Nam bộ có số lượng cán bộ nhiều hơn ở các tỉnh miền Trung và miền Bắc. Riêng số TV có từ 3-9 cán bộ ở các tỉnh miền Nam chiếm 12,6% tổng số TV cả nước.
- 12,6% TV có từ 3-9 cán bộ. Sở dĩ có sự chênh lệch về số lượng cán bộ trong cùng một hệ thống TV công cộng, cùng mạng lưới TV huyện, thậm chí cùng trong 1 tỉnh là do sự nhận thức, sự hiểu biết chưa đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ của TV huyện. Với những huyện miền núi, vùng Tây Nguyên rộng lớn, đi lại khó khăn, nếu chỉ có 1 cán bộ thì TV không thể đưa sách báo phục vụ cho nhân dân ở những vùng cao, vùng sâu, vùng xa được.
- Số liệu về cán bộ TV huyện cũng cho thấy hiệu lực công tác quản lý nhà nước về thư viện chưa cao. Đặc biệt các tỉnh miền Bắc, nơi đã có gần 50 năm xây dựng và phát triển TV huyện nhưng số lượng cán bộ trong các TV vẫn chưa được cải thiện.
5. Các dịch vụ thư viện:
- Theo báo cáo của Vụ Thư viện năm 2008 và khảo sát trực tiếp của nhóm đề tài ở 50 TV huyện tiêu biểu ở 3 miền trong nước, các TV huyện chủ yếu tổ chức các dịch vụ:
+ Phục vụ trong TV: cho mượn và đọc tại chỗ.
+ Phục vụ ngoài TV: tổ chức luân chuyển sách xuống các TV cấp xã.
+ Thông tin giới thiệu vốn tài liệu TV bằng hệ thống mục lục truyền thống chữ cái và phân loại.
+ Tổ chức trưng bày, triển lãm sách theo chuyên đề.
+ Tổ chức các cuộc nói chuyện chuyên đề về các lĩnh vực.
+ Giới thiệu sách mới trên hệ thống truyền thanh của huyện.
+ Tổ chức các cuộc thi tuyên truyền, giới thiệu sách, kể chuyện cấp xã, các tủ sách, kể chuyện và vẽ tranh theo sách trong thiếu niên và cán bộ TV cơ sở.
+ Tư vấn xây dựng và phát triển mạng lưới thư viện phòng đọc sách ở thôn làng, bản, ấp, bao gồm việc vận động thành lập, chọn lựa và mở lớp bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ thư viện cơ sở.
+ Bước đầu, tổ chức cho bạn đọc truy cập internet và tra cứu tư liệu trên mạng ở những TV có ứng dụng công nghệ thông tin (được phân tích đầy đủ hơn ở phần sau).
Qua theo dõi và khảo sát, có thể nhận thấy các dịch vụ của TV huyện tương đối phong phú.
Tuy nhiên, do hạn chế về số lượng và trình độ cán bộ, kinh phí hạn hẹp nên các dịch vụ nói chung không thường xuyên, đơn điệu, nghèo nàn, thiếu hấp dẫn, thiếu hiệu quả.
6. Công tác phục vụ bạn đọc:
- Theo số liệu điều tra tại 245 TV:
+ Tổng số bạn đọc được cấp thẻ: 66.590 thẻ.
+ Bình quân 1 TV cấp: 271 thẻ
+ Thư viện đăng ký đông nhất: 3.098 bạn đọc
+ Thư viện ít bạn đọc nhất: 8 bạn đọc
- Tỷ lệ cấp thẻ bạn đọc của các TV:
+ TV cấp từ 1 - 100 thẻ bạn đọc: 51 TV, chiếm 22,9%
+ TV cấp từ 101 - 200 thẻ: 58 TV, chiếm 26,0%
+ TV cấp từ 201 - 300 thẻ: 42 TV, chiếm 18,8%
- TV cấp từ 301 - 400 thẻ: 30 TV, chiếm 13,5%
+ TV cấp từ 401 - 500 thẻ: 15 TV, chiếm 6,7%
+ TV cấp từ 501 thẻ trở lên: 27, TV chiếm 12,1%
- Tổng số lượt bạn đọc năm 2008: 4.578.086 lượt người (175/245 TV báo cáo)
+ Bình quân 1 TV phục vụ: 21.904,72 lượt người/năm
+ TV có số lượt bạn đọc đông nhất: 266.058 lượt người
+ TV có số lượt bạn đọc ít nhất: 15 lượt người
- Tổng số lượt sách báo đưa ra phục vụ: 10.809.145 lượt sách báo
+ Bình quân 1 TV phục vụ: 52.218 lượt sách báo
+ TV luân chuyển nhiều nhất: 661.380 lượt sách báo
+ TV luân chuyển ít nhất: 17 lượt sách báo
* Qua số liệu thống kê, chúng ta nhận thấy:
+ Hiệu quả phục vụ bạn đọc - nhiệm vụ chính của các TV huyện còn rất hạn chế. Số lượng bạn đọc của 1 huyện TV quá ít. Số TV cấp trên 500 thẻ bạn đọc chỉ chiếm 12%. Thậm chí có TV chỉ cấp 8 thẻ bạn đọc/1 năm. Số lượt bạn đọc đến sử dụng hàng ngày đến TV hơn 70 lượt người (21.904 lượt người/300 ngày) cho thấy tính hấp dẫn thu hút bạn đọc của TV hạn chế. Có TV chỉ phục vụ 17 lượt người trong 1 năm? Tần suất luân chuyển sách báo cũng rất thấp, chỉ 174 lượt trong 1 ngày (52.218 lượt sách báo/300 ngày).
+ Sự chênh lệch và không đồng đều trong kết quả phục vụ bạn đọc là quá lớn. Trong khi đó, các cơ quan quản lý chưa có chính sách để động viên, khen thưởng cho những đơn vị hoạt động tốt. Như vậy là chưa công bằng.
+ Dường như chúng ta chưa giao chỉ tiêu nhiệm vụ, trong đó có chỉ tiêu phục vụ bạn đọc cho các TV nên nhiều TV hoạt động cầm chừng, kém hiệu quả.
7. Thư viện ứng dụng CNTT:
- Kết quả điều tra 249 TV huyện cho biết: 55/249 TV huyện đã ứng dụng CNTT, chiếm 22%. Theo kết quả này:
+ Số lượng máy tính của 44 TV báo cáo: 195 máy, bình quân 1 TV có 2,74 máy
+ Số máy in của 44 TV báo cáo: 48 máy, bình quân 1 TV có 1,15 máy (Năm 2009, theo dự án Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy cập internet do quỹ Bill and Melinda Gates tài trợ đã có 15 TV huyện được đầu tư 150 máy tính và 15 máy in. Để đảm bảo tính khách quan, chúng tôi không tính vào đây).
+ Số máy scanner: 8 máy
+ Số máy đọc mã vạch: 7 máy
- Những công việc của 55 TV đã ứng dụng CNTT thực hiện:
+ Soạn thảo văn bản: 100%
+ Làm thông tin chuyên đề và thẻ bạn đọc: 19/55 TV, chiếm 34,5%
+ Xây dựng CSDL: 34/55 TV, chiếm 61,8%
+ Đã thiết lập mạng LAN: 4/55 TV, chiếm 7,3%
+ Đã thiết lập mạng WAN: 1/55TV, chiếm 1,8%
+ Kết nối internet: 13/55, chiếm 23,6%
+ Có cả mạng LAN và WAN: 5/55 TV, chiếm 9,1%
+ Trao đổi thông tin trên mạng: 9/55 TV, chiếm 16,4%
+ Đã tra cứu tìm tin trên máy: 17/55 TV, chiếm 30,9%
+ Đã xây dựng phòng đa phương tiện: 6/55 TV, chiếm 10,9%
+ Đã mở lớp hướng dẫn bạn đọc tìm tin trên máy: 3/55 TV, chiếm 5,5%
+ Đã hỗ trợ biên soạn ấn phẩm thông tin: 26/55 TV, chiếm 47,3%
+ Đã hỗ trợ lưu hồ sơ: 13/55 TV, chiếm 23,6%
+ Đã hỗ trợ công tác tìm tin: 19/55 TV, chiếm 34,5%
+ Đã hỗ trợ phục vụ bạn đọc: 11/55TV, chiếm 20,0%
* Qua những số liệu rất chi tiết của việc ứng dụng CNTT trong các TV huyện, chúng ta nhận thấy:
+ Số TV được ứng dụng CNTT còn ít, mới chỉ hơn 20%. Hầu hết các TV đều có nguyện vọng được ứng dụng CNTT, chỉ có 4 TV/55 chiếm 1,6% cho là chưa cần thiết. Khi tìm hiểu lý do chưa được ứng dụng CNTT, 131/146 TV chiếm 89,7% trả lời đã đề nghị nhưng chưa được cấp trên phê duyệt.
+ Trang thiết bị cho các TV ứng dụng CNTT còn nghèo nàn, thiếu thốn.
+ Tuy vậy, các TV đã làm được nhiều việc, tạo ra màu sắc mới trong hoạt động TV, tăng sức thu hút bạn đọc.
+ Các TV thuộc khu vực các tỉnh Nam bộ được chú ý đầu tư mạnh mẽ hơn các khu vực khác. Đây chính là thước đo về tầm nhìn của lãnh đạo các địa phương đối với công tác ứng dụng CNTT trong thư viện huyện.
* Với những số liệu cơ bản nêu trên và qua nhiều nguồn thông tin khác, chúng ta có thể hình dung bức tranh toàn cảnh về mạng lưới thư viện huyện với những ưu và nhược là:
- Mạng lưới TV được trải rộng khắp các vùng miền đất nước. Tuy mức độ hoạt động có khác nhau, nhưng nói chung các thư viện huyện vẫn đang tồn tại và phát huy hiệu quả. Các chương trình quốc gia hỗ trợ TV huyện về sách hạt nhân, phương thức luân chuyển sách, đầu tư xây dựng trụ sở TV, hỗ trợ trang thiết bị, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ… có nhiều tác dụng tốt. Đã xuất hiện một số TV huyện tiêu biểu xuất sắc về từng mặt, xứng đáng là mô hình để cả nước học tập.
- Tuy nhiên, phải nói rằng, mạng lưới TV huyện hiện còn yếu kém, chưa được quan tâm đúng với vị trí vốn có của nó. Tốc độ phát triển quá chậm. Trên tất cả các mặt như số liệu điều tra cho thấy, gần 60% TV huyện đang tồn tại cầm chừng, hơn 30% TV hoạt động yếu. Số TV mạnh quá ít, chỉ chiếm dưới 10%, sự chênh lệch trong mức độ hoạt động của toàn mạng lưới là quá lớn. Đương nhiên, hệ quả là mạng lưới TV huyện hoạt động yếu, hiệu quả thấp, đáp ứng yêu cầu của bạn đọc rất hạn chế, không đủ năng lực để góp phần tạo nên phong trào đọc sách báo trong cộng đồng. Đã quá muộn khi nói tới Nhà nước cần nhanh chóng ra tay, “chấn hưng” mạng lưới TV huyện.
- Xin trích ý kiến của một cán bộ lãnh đạo, tâm huyết trên lĩnh vực thư viện ở TP. Hồ Chí Minh khi đánh giá về mạng lưới TV cấp huyện trên địa bàn: “Trong chiến lược xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, thư viện luôn được đặt lên hàng đầu. Thế nhưng, thực trạng hiện nay cho thấy việc các thư viện công cộng quận, huyện hoạt động kém hiệu quả có một phần quan trọng từ sự bỏ quên, xem nhẹ của chính các cơ quan quản lý mà trực tiếp ở đây là các trung tâm văn hóa quận, huyện. Sự phát triển mạnh mẽ của các loại hình giải trí ngày nay như điện ảnh, truyền hình, games điện tử… đã dẫn tới quá trình suy thoái, xa rời văn hóa đọc trong một bộ phận nhân dân. Đã có nhiều ý kiến, nhiều lời kêu gọi phục hồi văn hóa đọc, thế nhưng tại TP. Hồ Chí Minh hiện nay, hệ thống thư viện công cộng ở quận huyện - những “thành trì” gần dân nhất của văn hóa đọc, lại đang bị quên lãng. Thành trì cũ kỹ, lạc hậu, những người lính canh giữ thành thiếu về lượng, hụt về chất nên không có gì lạ khi thư viện công cộng trở thành những thành trì bị quên lãng trong cuộc chiến. Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh là đơn vị hỗ trợ về mặt nghiệp vụ cho các thư viện công cộng quận huyện nhưng nếu thiếu đi sự quan tâm của các cơ sở địa phương thì sự hỗ trợ đó không thể phát huy được”(1).
III. Mục tiêu và nội dung củng cố TV huyện vững mạnh:
Căn cứ nhu cầu và điều kiện kinh tế của đất nước, trước mắt nên tập trung giải quyết 3 mục tiêu chủ yếu ở mức tối thiểu nhằm nhanh chóng củng cố vững mạnh mạng lưới thư viện huyện cả nước như sau:
1.Xây dựng trụ sở TV huyện - mục tiêu đến 2015:
Với thực tế hiện nay, đây sẽ là việc đầu tiên cần làm trong chương trình củng cố vững mạnh mạng lưới TV huyện. Sau 5 năm, trụ sở của tất cả TV huyện được xây dựng sẽ tạo nên sự chuyển biến rất rõ nét trong Văn hóa đọc quốc gia và là một hình ảnh sinh động về quyết tâm phát triển văn hóa đọc của Đảng và Nhà nước. Mục tiêu cụ thể là:
+ Thành lập mới 100 TV huyện, đảm bảo 100% huyện có thư viện. Thay mặt Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần giao chỉ tiêu hàng năm cho từng tỉnh về việc thành lập TV huyện mới. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nên dành một phần quỹ sách hỗ trợ cho các TV huyện mới ra đời.
+ Hoàn thành toàn bộ việc đưa trụ sở TV huyện ra khỏi UBND huyện trước năm 2015.
+ Nhà nước cần dành ngân sách đầu tư xây dựng trụ sở cho gần 500 TV huyện hiện ở trong những căn nhà tạm bợ, không thích hợp cho việc bảo quản kho tàng và hạn chế việc đọc sách báo. Cần huy động đa dạng các nguồn tài chính, bao gồm ngân sách nhà nước từ trung ương tới địa phương, từ nguồn xã hội hóa, kêu gọi các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài. (Hội Cựu chiến binh Mỹ đã đầu tư xây dựng xong 8/10 TV huyện tại Quảng Trị. Theo cam kết, Hội sẽ hoàn thành nốt 2 TV trong năm nay).
+ Với vị trí Chiến lược phát triển văn hóa đọc, đề nghị Nhà nước đứng ra vay tiền từ quỹ ODA hoặc Ngân hàng thế giới để đầu tư rộng khắp việc xây dựng trụ sở TV Huyện. Bình quân mỗi TV cần 3 tỷ VNĐ tương đương 150.000USD. Nếu xây dựng 500 TV sẽ cần nguồn lực 1.500 tỷ VNĐ tương đương 75 triệu USD trong 5 năm. (Xingapo đã đầu tư 1 tỷ đô la Xingapo, tương đương 13.000 tỷ VND trong thời gian 1995 - 2000 để nâng cấp toàn bộ hệ thống, tiến tới theo khẩu hiệu “Xây dựng Xingapo trở thành hòn đảo thông minh”. Kết quả, hơn 30% dân số Xingapo đọc sách báo hàng năm tại các TV công cộng).
+ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ là người chủ trì dự án với sự tham gia của các sở, các huyện được đầu tư. Nên khuyến khích cơ chế 5x5 trong vốn đầu tư (của Trung ương và địa phương). Vụ TV cần hoàn thành các mẫu thiết kế chung, vừa đỡ tốn kém vừa đảm bảo đúng quy cách trụ sở TV.
+ Đầu tư sách báo, trang thiết bị cho TV: bao gồm bàn ghế bạn đọc, giá để sách báo, tủ mục lục, máy tính. Yêu cầu có đủ giá để bảo quản sách báo và phục vụ bạn đọc tự chọn sách theo yêu cầu, có đủ chỗ cho bạn đọc ngồi đọc. Tranh thủ dự án Bill and Melinda Gates để trang bị máy tính và đường truyền. Vận động các huyện chủ động đầu tư cho các TV chưa được đầu tư từ dự án. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần hỗ trợ đầu tư phần mềm TV điện tử cho các TV đã được đầu tư máy tính trong giai đoạn 2015-2020, tiến tới xây dựng mạng lưới TV huyện điện tử.
2. Ngân sách cho hoạt động và mua sách báo mới hàng năm:
+ Cần có quy định cụ thể mức đầu tư bổ sung sách báo mới hàng năm trong nguồn ngân sách văn hóa thông tin của huyện. Vụ TV cần làm việc với Bộ Tài chính để có quy định bằng văn bản về mức đầu tư mua sách báo hàng năm cho TV. Hiện nay, các TV huyện hầu như không có mục đầu tư này mà chỉ tính bình quân ngân sách cho cán bộ trong phòng hoặc trung tâm văn hóa, ví dụ, mỗi cán bộ được đầu tư 30 triệu/năm. Nên trở lại việc xếp hạng TV làm cơ sở cho đầu tư, đảm bảo tính công bằng và động viên các TV phấn đấu vươn lên.
+ Xây dựng phong trào đọc trong huyện: Vụ TV cần giao chỉ tiêu kế hoạch hàng năm cho các TV huyện. Đặc biệt lưu ý chỉ tiêu thu hút bạn đọc. Không thể để tình trạng, cả năm chỉ có 10-15 bạn đọc được TV phục vụ. Cần xây dựng chương trình phối hợp giữa TV huyện với TV trường học, tổ chức thường xuyên các hoạt động cổ vũ cho việc đọc sách. Các TV huyện có nhiệm vụ xây dựng điển hình trong hoạt động đọc sách của học sinh các lứa tuổi, tiến tới rút kinh nghiệm, nhân rộng ra các điểm mới. Trong điều kiện phát triển rộng rãi các phương tiện nghe nhìn, các trò chơi điện tử, các TV cần phối hợp với nhà trường và gia đình có giải pháp để điều tiết hợp lý thời gian vừa giải trí vừa đọc sách báo của các em học sinh.
+ Để đảm bảo tính hiệu quả trong sử dụng ngân sách, Vụ TV cần thống nhất với các cơ quan liên quan, chỉ đạo việc phân chia ngân sách hàng năm cho TV. Dự tính, nên phân bổ 15-20% ngân sách VH-TT-TT cho hoạt động TV nói chung. Điều này đồng nghĩa với việc ngân sách huyện đầu tư cho VH-TT-TT nhiều thì kinh phí cho TV huyện cũng được tăng và ngược lại. Cách làm này sẽ giúp cho cán bộ TV chủ động trong xây dựng kế hoạch hoạt động, tính toán hiệu quả nguồn ngân sách cả năm. Ngân sách này sẽ không tính phần xây dựng cơ bản cho TV.
+ Trong quá trình củng cố, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nên duy trì và mở rộng hơn các Chương trình quốc gia cho TV huyện.
+ Chương trình sách trợ giá của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hàng năm nên đầu tư cho những sách chất lượng được đánh giá sau 1 năm xuất bản. Như vậy, vừa đảm bảo chất lượng sách trợ giá vừa khuyến khích, động viên các tác giả nâng cao chất lượng tác phẩm của mình.
3. Ổn định mô hình tổ chức và bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ TV huyện:
+ Trước hết, cần giải quyết định biên tối thiểu 3 cán bộ cho 1 TV. Với số lượng tối thiểu đó, các TV mới có thể vừa tổ chức phục vụ bạn đọc tại trung tâm, vừa luân chuyển sách, đi xây dựng tủ sách, thư viện cơ sở và phối hợp tổ chức các hoạt động nhằm xây dựng phong trào đọc sách trong cộng đồng.
+ Cần sớm ổn định mô hình tổ chức của TV huyện theo hướng dẫn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch theo hướng TV chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện của UBND huyện, Phòng Văn hóa và Thông tin tham mưu giúp UBND huyện thực hiện quản lý nhà nước đối với TV. Vụ TV nên đưa ra những tiêu chí để các TV phấn đấu, trở thành 1 đơn vị độc lập, có con dấu và tài khoản riêng. Các TV tỉnh nên nhân rộng mô hình TV huyện Định Quán và các TV huyện ở Đồng Nai.
+ Vụ TV nên nhân rộng chương trình “xây dựng tầm nhìn và mục tiêu, kế hoạch hành động” cho các TV tỉnh, để TV tỉnh tổ chức cho các TV huyện nghiên cứu, nắm vững chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu phấn đấu của mình trong 5-10 năm tới.
+ TV tỉnh có nhiệm vụ tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ TV huyện. Cần ưu tiên dành thời gian tập huấn về áp dụng các chuẩn nghiệp vụ mới, về tổ chức các hoạt động cổ vũ văn hóa đọc, về sử dụng máy tính trong xây dựng cơ sở dữ liệu, phục vụ bạn đọc tra cứu, khai thác thông tin trên mạng, về tổ chức các hoạt động dịch vụ của TV huyện phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, phổ biến các tiến bộ kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu phát triển của địa phương.
+ Các TV tỉnh nên tổ chức những hội thảo chuyên đề về thực trạng việc đọc sách báo của nhân dân trên địa bàn huyện và những giải pháp nhằm thúc đẩy phong trào đọc, tiến tới xây dựng văn hóa đọc trong địa phương. Các cuộc hội thảo này cần mời rộng rãi các lực lượng xã hội cùng tham gia chứ không chỉ giới hạn trong cán bộ TV.
+ Hàng năm, các TV tỉnh nên tổ chức cho cán bộ TV huyện đi tham quan, học hỏi bè bạn trong và ngoài tỉnh. Đây là phương pháp bồi dưỡng trực quan, có hiệu quả nhiều mặt đối với cán bộ TV. Các TV cần tăng cường hơn nữa các hoạt động giao lưu với bạn đọc, lắng nghe và tiếp thu ý kiến góp ý của bạn đọc.
+ Để 3 mục tiêu quan trọng nhất trong việc củng cố vững mạnh mạng lưới TV huyện sớm được thực hiện, ngoài các giải pháp mang tầm vĩ mô của các cơ quan quản lý ở Trung ương, các thư viện tỉnh nên học tập cách giải quyết rất hiệu quả vấn đề thư viện huyện của tỉnh Hải Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu bằng xây dựng và trình Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt Đề án phát triển ngành thư viện toàn tỉnh (nội dung đã được giới thiệu trong Kỷ yếu Hội nghị tổng kết 5 năm hoạt động của hệ thống thư viện công cộng 2006 - 2010 và Tạp chí Thư viện Việt Nam số 4/2010).
+ Vụ TV, TVQG, Hội TV và TV các tỉnh cần phát động các đợt thi đua hàng năm trong các hệ thống TV. Gần đây báo chí đưa nhiều tin bài, phê phán những yếu kém của các thư viện. Tuy sự phản ánh của báo chí có phần phiến diện, nhưng đáng để chúng ta suy ngẫm. Thiết nghĩ, bằng việc làm cụ thể và thông qua phong trào thi đua tốt, chúng ta sẽ lấy lại hình ảnh đẹp về Thư viện và cán bộ thư viện trong lòng bạn đọc. Đồng thời, qua phong trào thi đua, chúng ta sẽ lựa chọn những cá nhân, đơn vị tiêu biểu, đề nghị Đại hội cán bộ TV các nước Đông Nam Á lần thứ XV (CONSAL) đang đến gần xét khen thưởng. Căn cứ mục tiêu thi đua chung, cần có tiêu chí thi đua cụ thể cho từng hệ thống, từng liên hiệp thư viện. Ví dụ, mục tiêu phấn đấu của các TV thuộc hệ thống Quân đội hiện nay là: “Tri thức làm nền, Tinh thông nghiệp vụ, Văn minh lịch sự, Chu đáo tận tình, Nỗ lực hết mình, Hoàn thành nhiệm vụ”.
Qua thực tế chúng tôi có cơ sở để tin rằng, nếu các mục tiêu tối thiểu trên được thực hiện, bước đầu sẽ tạo nên một mạng lưới TV huyện đủ mạnh để đi đầu trong cuộc tuyên truyền, vận động và đáp ứng tốt việc xây dựng một cộng đồng đọc sách báo trong tương lai. Chủ trương triển khai một chiến lược về xây dựng và phát triển văn hóa đọc sẽ được thực hiện có hiệu quả từ những mạng lưới thư viện rộng khắp, thân thiện và vững mạnh. Trong đó, mạng lưới TV huyện sẽ là “người lính” đi tiên phong trong chương trình, mục tiêu to lớn và vô cùng khó khăn này.
(1) Kỷ yếu hội nghị xây dựng và nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của TV cấp huyện trong thời kỳ CNH-HĐH tháng 5/2008 18
________________
Phạm Thế Khang
Hội Thư viện VN
Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam số 6(26) – 2010 (tr.12-20)
< Prev | Next > |
---|
- Đảng Cộng sản Việt Nam với công tác thư viện
- Một vài suy nghĩ về khả năng và lộ trình áp dụng RDA vào Việt Nam
- Làm thế nào để phát triiển văn hóa đọc ở Thủ đô Hà Nội
- Di sản văn hóa thành văn và văn hóa đọc Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội
- Sức sống ngàn năm của sản phẩm văn hóa đọc Thăng Long - Hà Nội
- Văn bia tiến sĩ biểu tượng và niềm tự hào của Hà Nội
- Đi tìm các bậc tiền bối ngành thư viện Việt Nam
- Một vài nét về nội dung các website thư viện đại học trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
- Vai trò của thông tin – thư viện trong hoạt động tuyên truyền, quáng bá, xúc tiến du lịch ở Quảng Ninh
- Việc đào tạo cán bộ thư viện - Nhất thiết phải liên tục