Quản lý nhà nước về thư viện ở Việt Nam: nhìn từ thực tiễn cuộc sống

Print

Quản lý nhà nước về thư viện (TV) là một phạm trù rộng lớn, có tầm ảnh hưởng vĩ mô đối với một lĩnh vực, một ngành ở một quốc gia, dân tộc. Trong phạm vi bài viết, tác giả khái quát một số nội dung lớn trong quản lý nhà nước về TV ở Việt Nam trong khoảng 20 năm trở lại đây xoay quanh 3 vấn đề chính: Chủ thể quản lý nhà nước về TV; Thực trạng quản lý nhà nước về TV gần 20 năm qua; Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về TV.

1. Chủ thể quản lý nhà nước về thư viện

 Chúng ta biết rằng, từ nhiều năm nay Chính phủ đã giao cho Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch - VHTTDL) là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về hoạt động TV trên toàn lãnh thổ Việt Nam (điều này đã được ghi rõ trong Pháp lệnh TV và các Nghị định của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ VHTTDL). Để thực hiện tốt vai trò, chức năng quan trọng này, hai thập kỷ qua, nhằm thể chế hoá những quan điểm của Đảng (qua các kỳ Đại hội Đảng) về chính sách văn hoá nói chung, về TV nói riêng, Bộ VHTTDL đã có nhiều cố gắng, nỗ lực tham mưu cho Chính phủ ban hành nhiều văn bản pháp quy (VBPQ) quan trọng về lĩnh vực TV. Hệ thống VBPQ (nói chung là cơ chế - chính sách của Nhà nước) trong lĩnh vực TV đã dần được hoàn thiện. Đặc biệt năm 2000, Pháp lệnh TV được ban hành (cùng với các Nghị định, Quyết định của Chính phủ, Thông tư, Chỉ thị, Quyết định của Bộ VHTTDL và các Bộ, ngành Trung ương (TW) được ban hành (đến thời điểm hiện tại năm 2017, có gần 30 VPPQ về lĩnh vực TV hoặc liên quan đến quản lý nhà nước về công tác TV), trong đó:

- 01 văn bản do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành (ngày 28/12/2000): Pháp lệnh TV.

- 04 Văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ: Nghị định số 72/2002/NĐ-CP ngày 06/8/2002 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh TV; Nghị định số 02/2009/NĐ-CP ngày 06/01/ 2009 của Chính phủ Quy định về tổ chức và hoạt động của TV tư nhân có phục vụ cộng đồng, Quyết định số 184/2014/QĐ-TTg ngày 24/2/2014 của Thủ tướng Chính phủ về Ngày Sách Việt Nam; Quyết định số 329/QĐ-TTg ngày 15/3/2017 phê duyệt Đề án phát triển văn hoá đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 và một số văn bản khác của chính phủ.

- Văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ VHTTDL gồm 5 Quyết định và 4 Thông tư.

- Văn bản của các Bộ, ngành khác ban hành có liên quan đến TV, gồm 15 Thông tư và các Quyết định, Chương trình phối hợp liên ngành (trong đó liên quan đến TV hệ thống giáo dục và đào tạo, có 01 Quyết định số 13/2008/QĐ-BVHTTDL của Bộ VHTTDL ban hành Quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động của TV trường Đại học; 01 Quyết định số 01/2003/QĐ/BGD&ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy định về tiêu chuẩn TV trường phổ thông; 01 Chương trình Phối hợp công tác số 122/CTPH-BVHTTDL-BGDĐT ngày 15/01/2016 giữa Bộ VHTTDL và Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc “Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về TV và đẩy mạnh các hoạt động giáo dục, học tập suốt đời trong các TV, giai đoạn 2016 - 2020” và 04 Thông tư liên tịch của các Bộ có liên quan đến công tác TV.

 Bên cạnh đó, hệ thống VBPQ về TV do các địa phương ban hành (chủ yếu là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh/ thành phố trực thuộc TW ban hành) về công tác TV/ liên quan đến TV khá nhiều: trên cơ sở các văn bản của TW, chính quyền địa phương các cấp đã ban hành (theo thẩm quyền) 184 văn bản quy phạm pháp luật triển khai thực hiện các quy định, chính sách của Nhà nước, để chỉ đạo hoạt động TV ở địa phương; 14 quyết định phê duyệt quy hoạch, 33 quyết định phê duyệt đề án phát triển ngành TV ở địa phương. Ngoài ra, các quyết định về quy chế tổ chức, hoạt động của TV cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã đang đi vào cuộc sống, tạo nên hành lang pháp lý khá thuận lợi cho các TV phát triển.

Có thể nói, Bộ VHTTDL với chức năng tham mưu cho Chính phủ thực hiện vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực TV, bằng việc xây dựng cơ chế, chính sách và ban hành các VBPQ quan trọng (của Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành ở TW) với hệ thống VBPQ nêu trên (cả ở TW và địa phương), đã được triển khai vào cuộc sống, thực sự đã tạo ra hành lang pháp lý tương đối đồng bộ, thống nhất và khá thuận lợi cho hoạt động của các hệ thống TV Việt Nam phát triển. Các quy định hiện hành nhìn chung khá phù hợp với hệ thống pháp luật Việt Nam và quốc tế, tạo nền móng cho hoạt động TV Việt Nam có khả năng hội nhập với hoạt động TV trong khu vực và thế giới, đồng thời là công cụ quan trọng để tăng cường công tác quản lý nhà nước về TV trên lãnh thổ Việt Nam.

2. Thực trạng quản lý nhà nước về thư viện gần 20 năm qua

Như trên đã nói, hệ thống VBPQ về lĩnh vực TV ở nước ta (do các cơ quan quản lý nhà nước ở TW ban hành hay do chính quyền các cấp địa phương ban hành), đều nhằm mục đích chung là tạo điều kiện cho sự phát triển của các hệ thống TV ở Việt Nam. Nhìn trên bình diện cả nước, khoảng hai thập kỷ trở lại đây, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, sự quan tâm đầu tư ngày càng tăng của Nhà nước đối với lĩnh vực văn hoá nói chung, lĩnh vực TV nói riêng, hoạt động TV Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, góp phần đắc lực vào việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho đất nước. Cho đến nay ở nước ta đã hình thành 2 hai loại hình TV cơ bản: TV công cộng với gần 18.000 TV (Thư viện Quốc gia Việt Nam, 63 TV cấp tỉnh, trên 626 TV cấp huyện và hàng nghìn TV/ tủ sách cấp xã và cơ sở); TV chuyên ngành với gần 400 TV đại học và cao đẳng, 24.746 TV các trường phổ thông, gần 80 TV các bộ, ngành, các viện, trung tâm nghiên cứu...). Mặt khác, với chủ trương xã hội hoá trong lĩnh vực văn hoá, bên cạnh các TV nhà nước, đã xuất hiện mô hình TV tư nhân, TV tủ sách dòng họ, gia đình, đã tham gia tích cực vào việc phục vụ đáp ứng nhu cầu thông tin, tri thức của cộng đồng, của toàn xã hội.  

Việc đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về một lĩnh vực nào đó luôn là vấn đề khó khăn, phức tạp, đặc biệt lĩnh vực TV ở Việt Nam (với những hệ thống/ diện phủ sóng vừa nhiều, vừa rộng, lại có cả 4 cấp hành chính từ TW đến cơ sở). Vì vậy, tác giả chọn cách đánh giá khái quát hiệu quả quản lý nhà nước về TV ở nước ta khoảng 20 năm trở lại đây theo một số tiêu chí chủ yếu sau:

2.1. Về đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và hiện đại hoá cho hoạt động thư viện  

Đây là chỉ số quan trọng và đầu tiên khi nói về hiệu quả quản lý nhà nước về công tác TV. Bởi lẽ một trong 4 yếu tố cấu thành TV là trụ sở, trang thiết bị TV.

Gần hai thập kỷ qua, nhất là từ khi có Pháp lệnh TV (VBPQ có tính pháp lý cao nhất về lĩnh vực TV ở Việt Nam hiện nay), cùng với các Nghị định của Chính phủ, các VBPQ quan trọng khác của TW và địa phương đã đem lại những kết quả to lớn, rất ấn tượng cho hoạt động TV trong cả nước. Minh chứng là đã có nhiều nhà/ công trình TV được đầu tư xây dựng mới. Rõ ràng với những chính sách mới về TV được ban hành (Pháp lệnh TV) và nhiều VBPQ quan trọng của TW đã “đánh thức tư duy” của nhiều cán bộ lãnh đạo từ TW đến địa phương, để từ đó thông qua Hội đồng nhân dân các tỉnh/ thành phố, ngân sách chi cho xây dựng và đầu tư cho TV được ưu tiên. Bằng chứng là: các TV ở TW, các TV tỉnh, thành, TV các trường đại học, TV Bộ, ngành... đã được sự quan tâm và đầu tư về cơ sở vật chất. Ví dụ: chỉ riêng hệ thống TV công cộng Việt Nam, từ năm 2000 đến nay, đã xây dựng mới được khoảng trên 50% TV tỉnh, thành (bình quân mỗi TV từ 30-40 tỷ đồng, như: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Dương, Bạc Liêu, Cà Mau; có TV được xây dựng từ 60-80 tỷ như: Hải Dương, Nghệ An, Đồng Nai, Đồng Tháp; đặc biệt có TV được xây trên 100 tỷ đồng như: Thanh Hoá, Bà Rịa - Vũng Tàu; TV tỉnh Quảng Ninh được xây dựng khoảng 400 tỷ đồng. Nhiều TV và trung tâm thông tin - TV trường đại học lớn đã được xây dựng mới với kinh phí hàng chục tỷ đồng như: TV trường Đại học Bách khoa Hà Nội (200 tỷ đồng); Trung tâm Thông tin - TV, trường Đại học Giao thông Vận tải (25 tỷ đồng); Trung tâm Thông tin - TV, trường Đại học Thương mại (10 tỷ đồng); đặc biệt 04 Trung tâm Học liệu ở các tỉnh, thành: Cần Thơ, Thái Nguyên, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng (chủ yếu xây bằng nguồn vốn của tổ chức nước ngoài, trị giá mỗi trung tâm trên/ dưới 100 tỷ đồng) và một số TV trường đại học ở thành phố  Hồ Chí Minh được xây dựng mới, đầu tư trang thiết bị hiện đại (hàng chục tỷ đồng).

Bên cạnh đó, có nhiều đề án lớn của TW và các địa phương đầu tư cho hiện đại hoá TV như: điện tử hoá hoạt động TV, cấp trang thiết bị TV hiện đại với nhiều tỷ đồng. Ví dụ, TV tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (đầu tư 30 tỷ), TV tỉnh Gia Lai (hơn 3 tỷ), TV tỉnh Đắk Lắk (3,5 tỷ), TV tỉnh Sơn La (1,8 tỷ), TV tỉnh Lạng Sơn (1,5 tỷ), TV tỉnh Bình Phước (2,2 tỷ)... Thêm vào bức tranh chung đó, ở một số tỉnh có điều kiện như: Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, chính quyền địa phương cũng đã có sự ưu tiên cho xây dựng và đầu tư hiện đại hoá TV. Ở một số tỉnh này, nhiều TV cấp huyện được xây mới (có TV huyện được xây trên 10 tỷ đồng, được đầu tư hàng chục máy tính), nối mạng với TV tỉnh, TV huyện..., phục vụ cho nhu cầu bạn đọc rất hiệu quả.

2.2. Về tăng cường kinh phí, vốn sách, báo, tài liệu cho thư viện

Song song với việc đầu tư xây dựng trụ sở các TV trong cả nước, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về TV cũng đã được biểu hiện rõ trong việc tăng kinh phí và tăng vốn sách, báo, tài liệu cho TV. Theo thống kê các TV tỉnh/ thành gửi về Vụ TV (Bộ VHTTDL) hàng năm, kinh phí chi cho hoạt động TV ở nhiều nơi, năm sau cao hơn năm trước (bình quân từ 6 đến 10%). Một số TV tỉnh, thành phố, các trường đại học lớn đã có sự ưu tiên kinh phí để mua các “bộ sưu tập số”, hoặc ưu tiên ngân sách để “hồi cố” sách, báo, tài liệu TV, nhằm từng bước xây dựng “CSDL thư mục”; “CSDL toàn văn” trong TV. Bên cạnh đó, phải kể tới Chương trình mục tiêu quốc gia của Chính phủ (thông qua Bộ VHTTDL) từ năm 1995-2015, mỗi năm trị giá hàng chục tỷ đồng cho 63 TV tỉnh, gần 400 TV huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới... Rõ ràng, với việc tăng ngân sách cho TV, vốn tài liệu, sách, báo (cả tài liệu giấy và tài liệu điện tử) trong nhiều TV tỉnh, TV các trường đại học ở Việt Nam đã tăng lên đáng kể, làm phong phú hơn kho tài liệu TV.

2.3. Về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đội ngũ người làm thư viện  

Nhìn chung, nguồn nhân lực (người làm TV) cho hệ thống TV cả nước đã được chú trọng hơn so với trước. Nhằm đáp ứng yêu cầu về hoạt động thực tiễn phục vụ văn hoá đọc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (nhất là ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước xây dựng TV điện tử, TV số), nhiều TV đã quan tâm và nâng cao chất lượng đội ngũ người làm TV, trong đó có việc không ngừng bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học, đặc biệt sử dụng phần mềm TV hiện đại. Được biết hàng năm, Bộ VHTTDL đã tổ chức các lớp tập huấn cho người làm TV tỉnh, TV huyện (với số lượng hàng trăm người/ năm). Bộ Quốc phòng cũng thường xuyên tổ chức tập huấn cho người làm TV trong quân đội. Nhiều người làm TV được cử đi đào tạo ở nước ngoài hoặc đào tạo tại các trường đại học trong nước (thạc sỹ, tiến sỹ). Ngoài ra, các tổ chức quốc tế như: Quỹ Bill & Melinda Gates (Hoa Kỳ), Quỹ Force (Hà Lan), Quỹ Sida (Thuỵ Điển) và nhiều tổ chức nước ngoài đã hỗ trợ đào tạo cho người làm TV ở Việt Nam.

2.4. Về đẩy mạnh xã hội hoá trong lĩnh vực thư viện

Thời gian qua, được sự quan tâm chỉ đạo của Bộ VHTTDL và các Bộ, Ban, ngành TW, sự hỗ trợ, giúp đỡ của các tổ chức xã hội, công tác xã hội hoá trong lĩnh vực TV đã đạt được nhiều thành tựu. Hệ thống VBPQ về TV đã tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho công tác xã hội hoá, nhờ đó ngành TV từ TW tới địa phương đã huy động được các nguồn lực to lớn, hỗ trợ, quyên góp về vật chất, tinh thần cho sự phát triển TV Việt Nam. Bên cạnh hệ thống TV nhà nước (TV công lập), các TV dân lập được hình thành và phát triển, như: TV tư nhân có phục vụ cộng đồng (hiện nay có gần 60 TV), Tủ sách dòng họ, chương trình “Sách hoá nông thôn”, Tủ sách gia đình (do ông Nguyễn Quang Thạch khởi xướng, đến nay có khoảng gần 350 đơn vị). Bên cạnh đó, phải kể đến sự tài trợ của các tổ chức trong và ngoài nước về sách, báo, trang thiết bị cho hệ thống TV Việt Nam. Hàng năm, Thư viện Quốc gia Việt Nam, 63 TV tỉnh, các TV chuyên ngành, đa ngành đã nhận được hàng chục nghìn bản sách do Quỹ Châu Á tặng (trị giá hàng tỷ đồng) và thông qua Ngày Sách Việt Nam (21/4), nhiều sách, báo, trang thiết bị TV của các tổ chức quốc tế, các đại sứ quán, lãnh sự quán các nước trên thế giới hỗ trợ cho các TV ở Việt Nam.

Hàng năm, Cục Xuất bản, Vụ Thư viện, Thư viện Quốc gia Việt Nam, các nhà xuất bản lớn ở TW (Chính trị Quốc gia, Quân đội nhân dân, Phụ nữ, Kim Đồng, Nhà xuất bản Trẻ) đã hỗ trợ hàng vạn cuốn sách, trị giá hàng tỷ đồng cho các TV cơ sở. Đặc biệt từ năm 2013-2015, Nhà xuất bản Kim Đồng triển khai dự án tặng 01 triệu cuốn sách cho trường học vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa (trị giá 2 tỷ đồng).

Đáng chú ý là, từ năm 2011 đến 2017, Dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy cập Internet công cộng tại Việt Nam”, do Quỹ Bill & Melinda Gates (Hoa Kỳ) tài trợ, tổng trị giá gần 40 triệu USD Mỹ, đã cấp khoảng 11.500 máy tính cho 40/63 tỉnh ở Việt Nam, Ngoài ra, từ năm 2005 đến 2013, các tổ chức phi chính phủ của các nước: Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đức, Pháp, Thuỵ Điển và Ngân hàng thế giới (WB) đã hỗ trợ, tài trợ, đầu tư cho hệ thống TV các trường đại học và cao đẳng ở Việt Nam với các dự án xây dựng Trung tâm Học liệu ở các tỉnh, thành: Thái Nguyên, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ (hoặc các dự án TV điện tử/ TV số, các lớp tập huấn người làm TV), trị giá các hạng mục tài trợ/ hỗ trợ nói trên từ vài tỷ đến vài chục tỷ đồng). Đặc biệt, để huy động mọi nguồn lực cho TV Việt Nam phát triển, 10 năm trở lại đây, đã có 8 TV tỉnh/ thành (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Yên Bái, Sơn La, Nghệ An, Quảng Nam, Gia Lai và An Giang) được tài trợ xe ôtô TV lưu động (do các tổ chức nước ngoài và doanh nghiệp Việt Nam tài trợ), mỗi chiếc xe từ 01 tỷ đến 1,5 tỷ đồng.

2.5. Một số nhận xét, đánh giá

Nhìn chung, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về TV ở Việt Nam trong 2 thập kỷ qua tuy đã được hình thành, nhưng chưa có sự thống nhất và thiếu đồng bộ.

- Hầu hết VBPQ về công tác TV mới chỉ ở dạng văn bản dưới luật, chưa có VBPQ quan trọng, có tầm chiến lược cho ngành (Luật TV Việt Nam), do vậy việc nâng tầm ảnh hưởng và thực thi vào cuộc sống còn có những hạn chế nhất định.

- Các VBPQ chủ yếu được ban hành cho hệ thống TV công cộng, văn bản về TV cho hệ thống TV chuyên ngành, đa ngành (TV giáo dục, TV lực lượng vũ trang, TV các Bộ, ngành TW...) còn quá ít và thường không cập nhật, đầy đủ.

- Trong thời đại bùng nổ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin hiện nay, các vấn đề: số hoá tài liệu, sở hữu trí tuệ và bản quyền tác giả... trong hoạt động TV ở Việt Nam hiện nay còn là vấn đề chưa được sự quan tâm, điều chỉnh trong các văn bản pháp luật về TV.

- Có văn bản (ví dụ Thông tư số 67/2006/TT-BVHTT ngày 10/8/2006 của Bộ Văn hoá - Thông tin hướng dẫn phân hạng và thực hiện chế độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo trong các tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công lập hoạt động văn hoá - thông tin) đã có những ảnh hưởng không lợi cho xếp hạng TV trong hệ thống TV công cộng, không tạo nên sự đầu tư cần thiết cho các TV công cộng ở Việt Nam.    

- Việc thực thi các văn bản pháp luật về TV thời gian qua còn những hạn chế nhất định: Nhiều địa phương không chú trọng xây dựng Quy hoạch chiến lược phát triển TV, triển khai các VBPQ TV còn chậm, thiếu đồng bộ, ở một số nơi, nhận thức của lãnh đạo chính quyền về TV chưa cao, nên chưa có sự quan tâm và đầu tư đúng mức cho TV (nhất là ở cấp huyện và cơ sở). Bên cạnh sự hạn chế của hệ thống pháp luật về TV như đã phân tích ở trên, các văn bản pháp luật khác có liên quan như Luật Xuất bản, Luật Giáo dục, Luật Khoa học Công nghệ, Luật Công nghệ thông tin, Luật Điện ảnh, Luật Di sản văn hoá, Luật Sở hữu trí tuệ… đã được Quốc hội sửa đổi, bổ sung (hoặc ban hành mới). Do vậy, việc áp dụng các quy định có liên quan đến TV trong những Luật này đã không còn tương thích với những quy định trong Pháp lệnh TV.

 3. Đề xuất một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về thư viện

- Xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách cho ngành TV Việt Nam (trong đó có Luật TV và các văn bản dưới luật), sẽ tạo thành một hệ thống văn bản thống nhất, đồng bộ, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về TV, hoàn thiện thể chế TV, hệ thống pháp luật Việt Nam theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

- Nâng cao năng lực hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về TV từ TW đến địa phương (cả về số lượng, chất lượng, cơ sở vật chất...), để các cơ quan hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tăng cường công tác tổ chức, điều phối hoạt động TV từ TW đến các địa phương.

- Đến năm 2020, viên chức làm công tác quản lý nhà nước về TV phải được tiêu chuẩn hoá thông qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước. Chỉ tuyển dụng, bổ sung công chức, viên chức làm tốt công tác quản lý TV theo tiêu chuẩn/ tiêu chí đề ra.

- Xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm và quy chế phối hợp trong công tác quản lý giữa cơ quan quản lý nhà nước về TV với các cơ quan chủ quản của loại hình TV chuyên ngành, đa ngành (lưu ý tăng cường quản lý nhà nước đối với các TV chuyên ngành, đa ngành, trong đó có hệ thống TV các trường đại học và cao đẳng). Đẩy mạnh cải cách hành chính trong hoạt động TV, tạo điều kiện cho tất cả các loại hình TV ở Việt Nam phát triển theo tinh thần của Luật TV.

- Tiến hành sửa đổi những văn bản có những quy định, điều khoản không phù hợp với thực tiễn. Ban hành các văn bản mới quan trọng, cần thiết đối với sự phát triển của ngành như: Chính sách quốc gia về TV; Chính sách thông tin, tư liệu, khoa học và công nghệ quốc gia thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Tăng cường kiểm tra, giám sát việc áp dụng tiêu chuẩn nhà nước về hoạt động TV, bản quyền tác giả trong hoạt động TV; Chuẩn hoá hoạt động nghiệp vụ TV toàn quốc.

- Cần nâng cao nhận thức cho các cán bộ quản lý, cán bộ lãnh đạo các cấp, nhất là trong việc thực thi các VBPQ về công tác TV từ TW đến địa phương, cả ở hệ thống TV công cộng và hệ thống TV chuyên ngành, đa ngành, việc thực thi pháp luật về TV phải được tiến hành nghiêm túc, trách nhiệm, hiệu quả.

- Tăng cường phối hợp công tác kiểm tra, thanh tra về hoạt động TV trong cả nước (có cơ chế thưởng, phạt nghiêm minh); đẩy mạnh xã hội hoá công tác TV; từng bước chuẩn hoá hoạt động nghiệp vụ TV theo tiêu chuẩn quốc tế hiện hành.

Tóm lại, chặng đường gần hai thập kỷ qua, được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, công tác quản lý nhà nước về TV đã tạo điều kiện thuận lợi cho TV Việt Nam đạt được một số thành tựu nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được, công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực TV còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu và tình hình nhiệm vụ, đòi hỏi các nhà quản lý, các chuyên gia, các nhà khoa học,

người làm TV ở TW và các địa phương phải cố gắng, nỗ lực nhiều hơn, đặc biệt là cần có tư duy mới, cách tiếp cận mới phù hợp với xu thế thời đại. Đó là bước chuyển quan trọng, có ý nghĩa để chúng ta tiếp cận với “TV và văn hoá đọc” trong xu thế toàn cầu hoá, ứng dụng công nghệ thông tin và sự chuyển mình có tính quy luật của hoạt động TV từ truyền thống sang hiện đại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch. Báo cáo đánh giá tác động Pháp lệnh Thư viện 15 năm ở hệ thống thư viện Việt Nam (2001-2016).

2. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch. Tổng kết 15 năm thực hiện Pháp lệnh Thư viện // Kỷ yếu Hội nghị - Hội thảo. - H., 2016.

3. Nghị định số 72/2002/NĐ-CP ngày 6/8/2002 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành Pháp lệnh Thư viện.

4. Nguyễn Hữu Giới. Một số kết quả xã hội hoá trong lĩnh vực thư viện ở nước ta // Tạp chí Thư viện Việt Nam. - 2016. - Số 5. - Tr. 68-70

5. Pháp lệnh Thư viện. - H.: Chính trị Quốc gia, 2001.

6. Về công tác thư viện : Văn bản pháp quy hiện hành về công tác thư viện. - H.: Vụ Thư viện, Bộ VHTTDL, 2008.

____________

ThS. Nguyễn Hữu Giới

Nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Thư viện

Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam. - 2017. - Số 5. - Tr. 3-7,56.


Đọc thêm cùng chuyên mục: